QUẺ SỐ 17: TRẠCH LÔI TÙY - BỘ BỘ ĐĂNG CAO
1. Quẻ Trạch Lôi Tùy trong Kinh Dịch
Tổng quan quẻ Trạch Lôi Tùy
Quẻ Trạch Lôi Tùy hay được gọi là Quẻ Tùy, là quẻ số 17 trong 64 Quẻ Kinh Dịch thuộc loại quẻ Bình Hòa.
Ngoại quái: ☱ Đoài (兌) - Trạch (澤) tức Đầm - Ngũ hành Kim.
Nội quái: ☳ Chấn (震) - Lôi (雷) tức Sấm - Ngũ hành Mộc.
Thuộc nhóm tượng quái Chấn (Quẻ Quy Hồn), Ngũ hành Mộc.
Quẻ Tùy báo hiệu kết quả sẽ thắng tùy thuộc vào địa vị của Đoài và Chấn. Tùy ở đây không phải tùy theo người khác, hay theo một hệ thống tư tưởng nào. Quẻ Tùy ở đây có nghĩa là tùy thời điểm. Nếu cần cương thì sẽ cương như Chấn còn nếu cần hòa duyệt thì hòa duyệt như Đoài.
Thoán từ:
Lời kinh: 隨元亨利貞, 无咎
Dịch âm: Tuỳ nguyên hanh lợi trinh, vô cữu
Dịch nghĩa: Theo nhau: rất hanh thông, nhưng phải theo điều chính đáng, vì điều chính đáng (trinh) mới có lợi, không có lỗi.
Tùy: Thuận dã. Di động. Cùng theo, mặc lòng, không có chí hướng, chỉ chiều theo, đại thể chủ việc di động, thuyên chuyển như chiếc xe. Phản phúc bất định chi tượng: loại không ở cố định bao giờ.
Dự là vui vẻ, vui vẻ thì có nhiều người theo nên tiếp sau là quẻ Tùy. Tùy là theo.
Tượng quẻ:
Trạch trung hữu lôi (Giữa đầm có sấm nổ)
Ngoại quái Đoài, nội quái Chấn có nghĩa là sấm động nên nước ở trong đầm cũng theo đó mà động. Hào Dương của nội quá nhường cho hào âm của ngoại quá lên trên hết. Cho nên chính trong động lại có hòa duyệt.
Đoài ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động; đó là cái tượng hành động mà được người vui theo.
Lại có thể giảng: Chấn là sấm, Đoài là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là tùy.
Lời thoán từ quẻ này chỉ khác lời Thoán từ quẻ Càn vì có thêm hai chữ "vô cữu" (không có lỗi) ở sau, mà nghĩa thay đổi hẳn. Chúng tôi dịch như trên là theo Chu Hi: nguyên hanh (rất hanh thông) là "đức" (tính cách) của Tùy; còn trinh (chính đáng) là điều kiện để cho Tùy có lợi mà không có lỗi.
Phan Bội Châu hiểu hơi khác: cả nguyên, hanh, lợi, trinh đều là điều kiện để "Tùy" có lợi mà không có lỗi. Theo người nhưng phải theo cái hay, theo đạo ; người có rất thiện (nguyên) , việc có thông thuận (hanh), có cái lợi công (lợi), thì mới nên theo, và khi theo thì phải giữ tiết tháo (trinh) thì mới không có lỗi.
Đại khái ba cách hiểu đó cũng không khác nhau mấy. Mà quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xa.
Thoán truyện bàn rộng thêm, đưa một điều kiện nữa: Theo mà phải đúng thời mới được. Ví dụ thời Hán, Vương Mãng cũng đã muốn làm một cuộc cách mạng xã hội; rất công bằng, tốt; nhưng thời đó sớm qua, nên thất bại. Tới đời Tống, Vương an Thạch cũng thất bại, như vậy là không hợp thời. Và Thoán truyện nhấn mạnh vào cái nghĩa tùy thời đó. (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai!)
Các hào trong quẻ:
1. Sơ Cửu (Hào 1 dương):
Lời kinh: 初 九: 官有渝, 貞吉, 出門交有功.
Dịch âm: Quan hữu du, trinh cát, xuất môn giao hữu công.
Dịch nghĩa: Chủ trương thay đổi, hễ chính thì tốt, ra ngoài giao thiệp thì có công.
Giảng nghĩa: Chữ "quan" ở đây có nghĩa là chủ, chữ "du" có nghĩa là thay đổi . Chu Hi hiểu là chủ trương thay đổi. Phan Bội Châu hiểu là cái thể của mình thay đổi, vì hào 1 là dương đáng lẽ làm chủ hai hào âm ở trên, nhưng ngược lại phải tùy hai hào đó (vì hào dương ở dưới cùng).
Hiểu theo cách nào thì vẫn : cứ chính đáng, theo lẽ phải, thì tốt (trinh cát). Đừng theo tư tình, mà theo người ngoài (xuất môn) nếu họ phải , thì thành công.
2. Lục Nhị (Hào 2 âm):
Lời kinh: 六 二: 係小子, 失丈夫.
Dịch âm: Hệ tiểu tử, thất trượng phu.
Dịch nghĩa: Ràng buộc với kẻ thấp kém (nguyên văn là : con nít) mà mất kẻ trượng phu.
Giảng nghĩa: Hào này âm nhu,không biết giữ mình, gần đâu tùy đấy, nên ràng buộc với hào 1 dương (tiểu tử), mà bỏ mất hào 5 cũng dương , ở trên, ứng hợp với nó.
Quẻ này, hễ là hào âm thì không dùng chữ tùy là theo, mà dùng chữ hệ là ràng buộc, có ý cho rằng âm nhu thì vì tư tình, hoặc lợi lộc mà quấn quít, còn dương cương thì vì chính nghĩa mà theo.
3. Lục Tam (Hào 3 âm):
Lời kinh: 六 三: 係丈夫, 失小子; 隨有求得, 利居貞.
Dịch âm: Hệ trượng phu, thất tiểu tử; Tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh.
Dịch nghĩa: Ràng buộc với trượng phu, bỏ kẻ thấp kém; theo như vậy cầu xin cái gì thì đựơc đấy, nhưng phải chính đáng mới có lợi.
Giảng nghĩa: Hào này cũng âm nhu như hào 2, gần đầu thân cận đấy, cho nên thân với hào 4 dương cương, có địa vị ở trên (tức với trượng phu) mà bỏ hào 1 (tiểu tử). Nó xin 4 cái gì cũng được vì 4 hơi có thế lực; nhưng Hào từ khuyên đừng xu thế trục lợi, phải giữ tư cách chính đáng thì mới tốt.
4. Cửu Tứ (Hào 4 dương):
Lời kinh: 九 四: 隨有獲, 貞凶.有孚, 在道, 以明何咎.
Dịch âm: Tùy hữu hoạch, trinh, hung. Hữu phu, tại đạo, dĩ minh hà Cửu.
Dịch nghĩa: Theo thì thu hoạch được lớn đấy, nhưng dù lẽ vẫn ngay mà cũng có thể gặp hung được. Cứ giữ lòng chí thành, theo đạo lý, lấy đức sáng suốt mà ứng phó thì không có lỗi.
Giảng nghĩa: Hào này như một vị cận thần, được vua tin cậy (5 và 4 cùng là dương cả), ở vào thời Tùy là thiên hạ theo mình, như vậy thu hoạch được lớn (có thể hiểu là được lòng dân, hoặc lập được sự nghiệp); nhưng chính vì vậy mà có thể gặp hung (chẳng hạn bị ngờ là chuyên quyền, bị vua ganh ghét như Nguyễn Trãi). Cho nên Hào từ khuyên giữ lòng chí thành theo đạo lý sáng suốt ứng phó (nghĩa là có đủ ba đức: tín, nhân, trí) thì mới khỏi lỗi.
5. Cửu Ngũ (Hào 5 dương):
Lời kinh: 九 五: 孚于嘉, 吉.
Dịch âm: Phu vu gia, cát.
Dịch nghĩa: Tín thành với điều thiện thì tốt.
Giảng nghĩa: Hào 5, dương cương, ở vị tôn, trung và chính, lại ứng hợp với hào 2, cũng trung chính, cho nên rất tốt. "Gia" , điều thiện, ở đây là đức trung chính.
6. Thượng Lục (Hào 6 âm):
Lời kinh: 上 六: 拘係之, 乃從維之.王用亨于西山.
Dịch âm: Câu hệ chi, mãi tòng duy chi. Vương dụng hanh vu Tây Sơn.
Dịch nghĩa: Ràng buộc lấy, theo mà thắt chặt lấy; Thái Vương nhà Chu, được nhân tâm như vậy mới lập được nghiệp vương hanh thịnh ở Tây sơn (tức Kỳ sơn).
Giảng nghĩa: Hào này ở cuối quẻ Tùy, là được nhân tâm theo đến cùng cực, như thắt chặt với mình, như vua Thái Vương nhà Chu, lánh nạn rợ Địch, bỏ ấp Mân mà chạy sang đất Kỳ Sơn (năm -1327), người ấp Mân già trẻ trai gái dắt díu nhau theo, đông như đi chợ.
Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch câu: "Vương dụng hanh vu Tây sơn" như vậy.
Chu Hi bảo chữ [ 亨 ] phải đọc là hưởng và hiểu là: vua dùng ý thành mà làm tế hưởng ở đất Tây Sơn.
J. Legge cũng dịch như Chu Hi. R.Wilhem cũng đọc là hưởng mà hiểu khác nữa: Vua cho những công thần được phụ hưởng (thờ chung với tổ tiên nhà Chu) ở nhà Thái Miếu tại Tây Sơn.
2. Quẻ Trạch Lôi Tùy trong thuật chiêm bốc, đoán quẻ
Ý nghĩa quẻ Tùy
Trong chiêm bốc, dự trắc Tùy có nghĩa là:
- Là tòng, tuỳ tòng, tuỳ thuộc, tuỳ phái viên, tuỳ viên, cấp dưới.
- Thuận theo, theo.
- Thoái lui, ở ẩn, thoái ẩn, buông rèm nhiếp chính (Đoài là cái
- Đẹp lòng (tượng trung chính, buông rèm nhiếp chính vẫn phải trung chính). Đoài ở trên là đẹp lòng, Chấn dưới động: đẹp lòng mà động, vì có động của dưới mà đẹp lòng trên, "song xa kháo nhai" 2 xe dựa vào nhau mà tiến bước.
- Tuỳ giữ trung chính mà thành Cách (thay đổi theo hướng tiến bộ, khác với hoán là thay đổi đơn thuần)
Triệu và điềm của quẻ Tùy
Quẻ Tùy có triệu Bộ Bộ Đăng Cao - Lên cao từng bước. Có bài thơ như sau:
Cầu tài cầu lộc, được hanh thông.
Hôn nhân, góp vốn, không trở ngại,
Cãi nhau, bệnh tật cũng dần thông.
Tích xưa: Ngày xưa, Viên Văn Tiến ban ngày đi ăn xin, ban đêm về ngủ ở miếu đã từng gieo được quẻ này. Quả nhiên, ông ta mơ thấy mình được "sách Trời", sau này làm quân sư hộ quốc. Đúng là ứng với quẻ "Dựa bờ đẩy xe", thật là "lên cao từng bước".
Lời bàn quẻ: "Kháo nhai" là dựa vào bờ đất cứng. Làm việc gì cũng phải có chỗ dựa. Chỗ dựa là điều kiện tất yếu của công việc. Vật mang tính âm không thể tự lập, tất phải theo vật mang tính dương. Vật dương cũng có chính tà, theo chính thì thành công hạnh phúc, theo tà thì thất bại bất hạnh.
Lời đoán quẻ: Khổ tận cam lai, vui vẻ phấn khởi, mọi sự dần dần như ý.
Dụng thần quẻ Tùy
Xét trường hợp ở hào tứ: Phi khắc Phục (Thủy khắc Hỏa). Theo vòng trường sinh, Hỏa tuyệt tại Hợi, Phục không những không xuất hiện được vì Phi khắc, mà còn" chết hẳn" ở ngay chính hào Phi là Hợi, khó có cơ "sống lại".