QUẺ SỐ 3: THỦY LÔI TRUÂN - LOẠN TI VÔ ĐẦU

1. Quẻ Thủy Lôi Truân trong Kinh Dịch

Tổng quan quẻ Thủy Lôi Truân

Quẻ Thủy Lôi Truân

Quẻ Thủy Lôi Truân hay được gọi là Quẻ Truân, là quẻ số 3 trong 64 Quẻ Kinh Dịch thuộc loại quẻ Hung.

Ngoại quái: ☵ Khảm (坎) - Thủy (水) tức Nước - Ngũ hành Thủy.

Nội quái: ☳ Chấn (震) - Lôi (雷) tức Sấm - Ngũ hành Mộc.

Thuộc nhóm tượng quái Khảm, Ngũ hành Thủy.

Quẻ này trong chỗ hiểm động được. Có thể hanh thông, mà ở chỗ hiểm, tốt nhất nên giữ cho đường ngay thẳng, chớ nên vội tiến. Lời Chiêm là cả hanh và lợi về đường ngay thẳng.

Thoán từ:

Lời kinh: 屯元亨利貞, 勿用有攸往, 利建候.

Dịch âm: Truân nguyên hanh lợi trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.

Dịch nghĩa: Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu).

Truân: Nạn dã. Gian lao. Yếu đuối, chưa đủ sức, ngần ngại, do dự, vất vả, phải nhờ sự giúp đỡ. Tiền hung hậu kiết chi tượng: trước dữ sau lành.
Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn

Tượng quẻ:

Vân lôi truân (Mây trên sấm dưới)

Là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm.Truân chỉ thời kỳ gian nan, vất vả lúc ban đầu, khác với quẻ Khôn là gian nan lúc giữa cuộc, khác với quẻ Khốn là khốn khổ lúc chung cuộc. Tượng quẻ là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm, cho nên tên nó là Truân. Nguy hiểm ở ngoài (Khảm), ở trong thì náo loạn (Chấn). Tức là những khó khăn gặp phải khi mới hình thành.

Thoán truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau:
Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở) cho nên có nghĩa là truân.
Lại thêm: nội quái có một hào dương (cương) hai hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật màl úc đầu bao giờ cũng gian nan: truân.
Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên tước hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu torng nội quái (chấn) có nghĩa họat động. buổi đầu gian nan thì được người đó, tỉ như lập được một đòan thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân.

Các hào trong quẻ:

1. Sơ Cửu (Hào 1 dương):

Lời kinh: 初 九: 磐 桓, 利 居 貞, 利 建 侯.

Dịch âm: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu.

Dịch nghĩa: Còn dùng dằng, giữ được điều chính thì lợi, được đặt lên tước hầu (nghĩa là được giao cho việc giúp đời lúc gian truân) thì lợi.

Giảng nghĩa: Như trên tôi đã nói, hào này là dương, tượng người có tài, lại đắc chính vì dương ở dương vị, cho nên giữ được điều chính và có lợi; sau cùng nó là dương mà lại dưới hai hào âm trong nội quái, có cái tượng khiêm hạ, được lòng dân. Vậy là người quân tử mới đầu tuy còn do dự, sau sẽ được giao cho trọng trách giúp đời.

2. Lục Nhị (Hào 2 âm):

Lời kinh: 六 二: 屯 如 邅 如, 乘 馬 班 如, 匪 寇 婚 媾 . 女 子 貞 不 字, 十 年 乃 字.

Dịch âm: Truân như, chuyên như, thừa mã ban như. Phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự.

Dịch nghĩa: Khốn đốn khó khăn như người cưỡi ngựa còn dùng dằng lẫn quẩn (Nhưng hào 1 kia) không phải là kẻ cướp, chỉ là muốn cầu hôn với mình thôi. Mình cứ giữ vững chí, đừng chịu, mười năm nữa sẽ kết hôn (với hào 5).

Giảng nghĩa: Hào 2, âm, vừa đắc trung lẫn đắc chính, lại ứng với hào 5 cũng đắc trung đắc chính ở trên, như vậy là tốt. Chỉ hiềm cách xa hào 5 mà lại ở sát ngay trên hào 1, dương , bị 1 níu kéo, cho nên còn ở trong cảnh truân chuyên (khó khăn). Nhưng đừng ngại, hào 1 có tư cách quân tử , không phải là kẻ xấu muốn hảm hại mình, chỉ muốn cưới mình thôi (1 là dương, 2 là âm). Đừng nhận lời, cứ giữ vững chí, mươi năm nữa sẽ kết hôn với hào 5.
Chữ tự [ 字 ] ở đây nghĩa là gả chồng. Theo kinh Lễ, con gái tới tuổi gã chồng thì cài trâm và đặt tên tự.

3. Lục Tam (Hào 3 âm):

Lời kinh: 六 三: 即 鹿, 无 虞, 惟 入 于 林 中. 君 子 幾, 不 如 舍, 往 吝.

Dịch âm: Tức lộc, vô ngu, duy nhập vu lâm trung. Quân tử cơ, bất như xả, vãng lận.

Dịch nghĩa: Đuổi hươu mà không có thợ săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong rừng thôi (không bắt được). Người quân tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn hơn, cứ tíếp tục tiến nữa thì sẽ hối hận.

Giảng nghĩa: Hào 3 là âm, ở dương vị, bất chính bất trung; tính chất đã không tốt mà ở vào thời truân; hào 6 ở trên cũng là âm nhu không giúp được gì mình, như vậy mà cứ muốn làm càn, như người ham đuổi hươu mà không được thợ săn giúp (chặn đường con hươu, đuổi nó ra khỏi rừng cho mình bắt) thì mình cứ chạy theo con hươu mà càng vô sâu trong rừng thôi. Bỏ đi là hơn.

4. Lục Tứ (Hào 4 âm):

Lời kinh: 六 四: 乘 馬 班 如 . 求 婚 媾, 往 吉, 无 不 利.

Dịch âm: Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lợi.

Dịch nghĩa: Cưỡi ngựa mà dùng dằng. Cầu bạn trăm năm (hay đồng tâm) ở dưới (ở xa) thì không gì là không tốt.

Giảng nghĩa: Hào này âm nhu, đắc chính là người tốt nhưng tài tầm thường, gặp thời Truân không tự mình tiến thủ được. Tuy ở gần hào 5, muốn cầu thân với 5, nhưng 5 đã ứng với 2 rồi, thế là 4 muốn lên mà không được, như người cưỡi ngựa muốn tiến mà dùng dằng. Chu Công khuyên hào 4 nên cầu hôn với hào 1 ở dưới thì hơn: (vì 1 có tài đức) mà cùng nhau giúp đời, không gì là không lợi.
Chúng ta để ý: cặp 5-2 rất xứng nhau, cả hai đều đắc chính, đắc trung, rất đẹp, cặp 4-1 không đẹp bằng: 4 bất trung, kém 2; cho nên phải kết hợp với 1 ở dưới, 1 tuy ở dưới mà đắc chính, như vậy là xứng đôi. Đó là luật: "dĩ loại tụ", họp với nhau thì phải xứng nhau, đồng tâm, đồng đạo.

5. Cửu Ngũ (Hào 5 dương):

Lời kinh: 九 五: 屯 其 膏; 小 貞 吉, 大 貞 凶.

Dịch âm: Truân kì cao; tiểu trinh cát, đại trinh hung

Dịch nghĩa: Ân trạch không ban bố được (nguyên văn: dầu mỡ (cao) không trơn (truân), chỉnh đốn việc nhỏ thì tốt, việc lớn thì xấu.

Giảng nghĩa: Hào cửu ngũ này vừa chính vừa trung, ở địa vị chí tôn, đáng lẽ tốt; nhưng vì ở trong thời gian truân (quẻ Truân) lại ở giữa ngọai quái là Khảm, hiểm, nên chỉ tốt vừa thôi. Hào 2 tuy ứng với nó nhưng âm nhu , không giúp được nhiều; lại thêm hào 1 ở dưới, có tài đức, được lòng dân, uy quyền gần như lấn 5, mà ân trạch của 5 không ban bố khắp nơi được. Cho nên 5 phải lần lần chỉnh đốn các việc nhỏ đã, đừng vội làm việc lớn mà hỏng.
Nghĩa là tuy có tài đức, có địa vị, nhưng cũng phải đợi có thế có thời nữa.

6. Thượng Lục (Hào 6 âm):

Lời kinh: 上 六: 乘 馬 班 如, 泣 血 漣 如.

Dịch âm: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như.

Dịch nghĩa: Cưỡi ngựa mà dùng dằng, khóc tới máu mắt chảy đầm đìa.

Giảng nghĩa: Hào này ở trên cùng, là thời gian truân tới cực điểm. Nếu là hào dương (có tài trí) thì gian truân cùng cực sẽ biến thông; nhưng hào này là hào âm, bất tài, bất trí, nhu nhược, chỉ biết lên lưng ngựa rồi mà vẫn dùng dằng mà khóc đến chảy máu mắt (Hào tuy ứng với hào 6 nhưng cũng âm nhu, chẳng giúp được gì)

2. Quẻ Thủy Lôi Truân trong thuật chiêm bốc, đoán quẻ

Ý nghĩa quẻ Truân

Trong chiêm bốc, dự trắc Truân có nghĩa là:

  • Rối ren, gian truân, gian khổ, khó khăn.
  • Đầy tắc, uất kết chưa thông (ví như trời nhiều mây sấm dậy nhưng mưa lại chưa xuất hiện, đến cùng cực của sự oi ả, sự uất tắc của thời tiết).
  • "Nạn sinh" tức chuẩn bị sinh nở, phút cuối trước khi sinh (Chấn: động, ở trong)

Triệu và điềm của quẻ Truân

Quẻ Truân có triệu Loạn Ti Vô Đầu - Lòng Dạ Rối Bời. Có bài thơ như sau:

Tơ rối vô đầu, gỡ không ra,
Gặp việc không đâu, chớ có làm.
Giao dịch kinh doanh, đều không lợi,
Mưu cầu vinh lộc, cũng mất công.

Tích xưa: Ngày xưa, Chu Cảnh Nguyên đi đến nhà họ hàng thân thích nhờ cậy, dọc đường gieo phải quẻ này. Sau đó, người họ hàng đã không nhận, đuổi ra khỏi nhà. Đúng là ứng với quẻ "Loạn ty vô đầu" – thật là "lòng dạ rối bời".

Lời bàn quẻ: "Truân" là hiện tượng mới sinh ra, biểu hiện chưa rõ ràng. Đây là quẻ nói về thời kì đầu của mọi hiện tượng, "tình" chưa rõ, "thế" chưa định vì vậy cần phải thận trọng, chớ hành động vội vàng. Nếu không chỉ làm cho sự việc rắc rối thêm. Vì vậy, người khôn hiểu được vạn sự khởi đầu nan, không vội hành động.

Lời đoán quẻ: Bệnh tật khó chữa khỏi, hôn nhân không hay, cãi nhau chuyện vặt, mọi việc rối mù.

Dụng thần quẻ Truân

Quẻ Truân so với Khảm, thiếu hào Mậu Ngọ. Thê Tài Hỏa, đây chính là Phục Thần của Truân, nằm phục ở hào tam Canh Thìn: Quan Quỷ - Thổ là Phi Thần. Hỏa sinh Thổ, nghĩa là Phục Thần sinh Phi Thần, phản ánh thông tin: ngoại lực đóng vai trò tích cực (phát huy hết tiềm năng, tài, trí...) để giúp đối tượng giải quyết sự việc đang diễn ra. Trong khi đó chủ thể thi lúng túng, chưa rò phương án hành động.