QUẺ SỐ 44: THIÊN PHONG CẤU - THA HƯƠNG NGỘ HỮU

1. Quẻ Thiên Phong Cấu trong Kinh Dịch

Tổng quan quẻ Thiên Phong Cấu

Quẻ Thiên Phong Cấu

Quẻ Thiên Phong Cấu hay được gọi là Quẻ Cấu, là quẻ số 44 trong 64 Quẻ Kinh Dịch thuộc loại quẻ Bình Hòa.

Ngoại quái: ☰ Càn (乾) - Thiên (天) tức Trời - Ngũ hành Kim.

Nội quái: ☴ Tốn (巽) - Phong (風) tức Gió - Ngũ hành Mộc.

Thuộc nhóm tượng quái Càn, Ngũ hành Kim.

Quẻ Cấu có sức cương cường của Càn, đối phó với sự xâm nhập của tốn nên quẻ này cần thắt chặt, diệt trừ hiểm họa khi nó mới chớm nở. Trung chính, cương quyết khi nó đang phát triển. Tuy nhiên không nên quá hẹp hòi, thiếu suy xét đề phòng đúng mức, đúng thời điểm.

Thoán từ:

Lời kinh: 垢, 女壯, 勿用取女.

Dịch âm: Cấu, nữ tráng, vật dụng thú nữ.

Dịch nghĩa: Gặp gỡ: Con gái cường tráng, đừng cưới nó (cũng có nghĩa là tiểu nhân đương lúc rất mạnh, đừng thân với nó).

Cấu: Ngộ dã. Tương ngộ. Gặp gỡ, cấu kết, liên kết, kết hợp, móc nối, mềm gặp cứng. Phong vân bất trắc chi tượng: gặp gỡ thình lình, ít khi.
Lời giảng của Tự quái truyện rất ép: Quải là quyết, phán quyết; phán quyết xong rồi thì biết được lành hay dữ, tất có người để gặp gỡ, cho nên sau quẻ Quải tới quẻ Cấn (gặp gở).

Tượng quẻ:

Thiên hạ hữu phong (Dưới trời có gió)

Ngoại quái Càn, nội quái Tốn, gió thổi dưới bầu trời nên đi tới đâu sẽ đụng tới đó. Hào âm dưới cùng những tưởng âm khí tiêu tan nhưng hào âm dưới cùng xuất hiện đội năm hào dương bên trên.

Trời (Càn) ở trên, gió (Tốn) ở dưới, gió đi dưới trời, tất đụng chạm vạn vật, cho nên gọi là Cấu (gặp gỡ).
Quẻ này một hào âm mới sinh ở dưới (thuộc về tháng 5), đụng với 5 hào dương ở trên, cũng như một người con gái rất cường tráng, đụng với (Cấn) năm người con trái, chống được với 5 người còn trai, hào đó lại bất đắc chính (âm ở vị dương), như người con gái bất trinh, không nên cưới nó.
Thoán truyện đưa thêm một nghĩa khác, trái hẳn, tương truyền là của Khổng tử; một hào âm xuất hiện ở dưới năm hào dương, là âm dương bắt đầu hội ngộ (gặp nhau: cấu), vạn vật nhờ đó sinh trưởng, các phẩm vật đều rực rỡ. Tốt. Lại thêm hào 5 dương cương , trung chính, thế là đạo quân tử được thi hành khắp thiên hạ (cương ngộ trung chính, thiên hạ đại hành dã). Cho nên ý nghĩa chữ "Cấu" này thật lớn lao. Đại tượng truyện chỉ coi tượng quẻ, không để ý tới nghĩa gặp gỡ của quẻ, mà đưa ra lời khuyên người quân tử nên thi hành mệnh lệnh, báo cáo, hiểu dụ khắp bốn phương, như gió thổi vào khắp vạn vật ở dưới trời.

Các hào trong quẻ:

1. Sơ Lục (Hào 1 âm):

Lời kinh: 初 六: 繫于金柅, 貞吉.有攸往見凶.羸豕孚蹢躅.

Dịch âm: Hệ vu Kim nê, trinh cát; hữu du vãng kiến hung. Luy thỉ phu trịch trục.

Dịch nghĩa: Chặn nó lại bằng cái hãm xe bằng kim khí, thì đạo chính mới tốt; nếu để cho nó (hào 1) tiến lên thì xấu. Con heo ấy tuy gầy yếu, nhưng quyết chắc có ngày nó sẽ nhảy nhót lung tung.

Giảng nghĩa: Hào âm (tiểu nhân) này mới xuất hiện, phải chặn ngay nó mới được, đừng cho nó tiến lên thì đạo chính của người quân tử mới tốt; nếu để nó tiến lên thì xấu. Vì bây giờ nó tuy còn non, yếu, nhưng một ngày kia nó sẽ mạnh, nhảy nhót lung tung. Đừng nên coi thường nó.
Đó là cách trừ kẻ tiểu nhân mà cũng là cách trừ những tật mới phát sinh.

2. Cửu Nhị (Hào 2 dương):

Lời kinh: 九 二: 包有魚, 无咎.不利賓.

Dịch âm: Bao hữu ngư, vô Cửu; bất lợi tân.

Dịch nghĩa: Nhốt con cá (hào 1) vào trong bọc, không có lỗi; nhưng đừng cho nó (hào 1) gặp khách.

Giảng nghĩa: Hào 2 này tuy ở sát hào 1, nhưng có đức dương cương , lại đắc trung , cho nên chế ngự được 1, như nhốt lỏng nó trong cái bao (ví hào 2 với con cá vì cá thuộc âm), như vậy không có tội lỗi.
Nhưng 1 chính ứng với hào 4; 4 muốn làm thân với 1 lắm, nó bất trung bất chính, không có đức như 2, sẽ bị 1 mê hoặc mất, cho nên Hào từ khuyên hào 2 phải ngăn không cho 1 gặp 4 (chữ tân là khách, trỏ hào 4).

3. Cửu Tam (Hào 3 dương):

Lời kinh: 九 三: 臀无膚, 其行次且, 厲, 无大咎.

Dịch âm: Đồn vô phu, kì hành tư thư, lệ, vô đại Cửu.

Dịch nghĩa: Như bàn toạ không có da (ngồi không yên mà đứng dậy) đi thì chập chững, có thể nguy đấy, nhưng không có lỗi lớn.

Giảng nghĩa: Hào 3 này quá cương (dương ở vị dương) , bất trung, muốn có bạn là 1, nhưng hào 2 đã là bạn của 1 rồi; ngó lên trên có hào trên cùng ứng với 3, nhưng cũng là dương như 3, thành thử có vẻ ngồi không an, mà đi thì chập chững, có thể nguy đấy. Nhưng nó đắc chính (dương ở vị dương) nên biết giữ đạo, không mắc lỗi lớn.

4. Cửu Tứ (Hào 4 dương):

Lời kinh: 九 四: 包无魚, 起凶.

Dịch âm: Bao vô ngư, khởi hung.

Dịch nghĩa: Trong bọc của mình không có cá, hoạ sẽ phát.

Giảng nghĩa: Hào này ứng với 1, nhưng bị 2 ngăn không cho gặp (coi lại hào 2), 1 đã như ở trong cái bọc của 2 rồi, cho nên cái bọc của 4 không có gì cả. Sở dĩ vậy cũng do lỗi của 4, bất trung, bất chính, làm mất lòng 1. Người trên mà mất lòng kẻ dưới, thì hoạ sẽ phát.

5. Cửu Ngũ (Hào 5 dương):

Lời kinh: 九 五: 以杞包瓜, 含章, 有隕自天.

Dịch âm: Dĩ kỉ bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự thiên.

Dịch nghĩa: Dùng cây kỉ mà bao che cây dưa, ngậm chứa đức tốt, (sự tốt lành) từ trên trời rớt xuống.

Giảng nghĩa: Hào này ở địa vị tối cao, dương cương , trung chính, có đức tốt mà không khoe khoang (ngậm chứa đức tốt), bao bọc cho kẻ tiểu nhân ở dưới (hào 1) như cây kỉ, cao, cành lá xum xuê che cây dưa (thuộc loài âm). Như vậy là hợp đạo trời, sẽ được trời ban phúc cho.

6. Thượng Cửu (Hào 6 dương):

Lời kinh: 上 九: 姤其角, 吝, 无咎.

Dịch âm: Cấu kì giác, lận, vô Cửu.

Dịch nghĩa: Gặp bằng cái sừng, đáng hối tiếc, không đổ lỗi cho ai được.

Giảng nghĩa: Hào này ở trên cùng, thời Cấu (gặp gỡ) cho nên ví với cặp sừng. Gặp nhau mà bằng cặp sừng (đụng nhau bằng sừng) ý nói quá cương – đáng hối tiếc. Mọi sách đều dịch "vô cữu" là không có lỗi mà không giảng tại sau quá cương mà không có lỗi. Riêng Phan Bội Châu hiểu là: không đổ lỗi cho ai được.

2. Quẻ Thiên Phong Cấu trong thuật chiêm bốc, đoán quẻ

Ý nghĩa quẻ Cấu

Trong chiêm bốc, dự trắc Cấu có nghĩa là:

  • Cấu là ngộ: ngẫu nhiên mà gặp gỡ, gặp thời tới (bản thân chưa đủ độ để có, nhưng bất ngờ mà có, chẳng may mà có).
  • Cấu kết, công ty (còn có nghĩa là âm mưu, nếu kiện tụng là đối phương đang cấu kết có âm mưu, nếu lập công ty là được).
  • Giao cấu (không chính phối như quẻ Hằng vì 1 âm dưới 5 dương, là cấu dâm tà, không chính giao, quẻ hay ứng với nghĩa giao cấu này).
  • Rạn nứt, thoái hoá (Thuần Càn đứt một nét đáy; quan hệ vợ chồng dễ xảy ra rạn nứt, sinh chuyện).
  • Sự đè nén, trù úm, ức hiếp, định kiến (Ngũ linh đời người: là người có tài nhưng không được dùng, bị đè nén, khuyết hãm trong công việc gia đình hay cuộc sống)(Cấu 5 dương đè nén một hào âm).
  • Tâm linh (Ngộ), đạo của thái cực sinh lưỡng nghi, của âm dương tiêu trưởng (Tượng Thái dương và Thiếu âm, hào âm là hào yếm thế, chịu đựng; Ngũ linh đời người: giỏi độn số, bói toán, dịch học)
  • Tiểu nhân, nguỵ quân tử (một phần âm lớn dần lên lấn phần dương, câu kết nhen nhóm, không thật lòng, rạn nứt từ bên trong).

Triệu và điềm của quẻ Cấu

Quẻ Cấu có triệu Tha Hương Ngộ Hữu - Thời vận đã đến. Có bài thơ như sau:

Gặp bạn quê người, thật là may,
Vận khí đi lên, thoát cảnh hàn.
Từ nay thay đổi, lộc tài đến,
Phú quý vinh hoa, chỉ đợi ngày.

Tích xưa: Ngày xưa, Phạm Thư người nước Ngụy tránh nạn định chạy sang Tần, gieo được quẻ này. Quả nhiên sau này ông gặp bạn cũ Trịnh An Bình giới thiệu cho Vương Kê sứ giả của vua Tần. Vương Kê đưa Phạm Thư sang Tần. Tần Vương phong ông làm thừa tướng đánh 6 nước chư hầu. Đúng là ứng với quẻ "Tha hương ngộ hữu", thật là "thời vận đã đến".

Lời bàn quẻ: Có ở cảnh khốn cùng nơi đất khách quê người mới hiểu giá trị của tình bạn bè. Không có bạn thì không ai giúp lúc khó khăn. Có tình bạn còn hơn ruột thịt, đó là bạn tri kỉ.

Lời đoán quẻ: Giao dịch thành công, kiện tụng có lí, của mất lại về, lộc tài đưa đến, bệnh tật tiêu tan.

Dụng thần quẻ Cấu

Quẻ Cấu thuộc nhóm quẻ Càn, tính Kim. Tính ngũ hành tổng thể của quẻ thiếu Mộc (so với Càn làm chuẩn). Hào Mộc Giáp Dần tại Càn ở hào nhị, nên nó là Phục Thần của hào nhị quẻ Cấu ở Tân Hợi, Tân Hợi chính là Phi Thần. Tân Hợi tính Thủy, mà Mộc (Giáp Dần) trường sinh tại Hợi. Vậy Hợi sinh Dần (Thủy sinh Mộc), Phi sinh Phục. Do đó Giáp Dần tuy phục (núp, ẩn) nhưng vẫn xuất hiện được. Do vậy, qua dự báo, những thông tin các chiều (xấu, tốt, hay, dở ..) liên quan đến Phục Thần Giáp Dần đều thể hiện rõ nét, không phải chờ đợi.