QUẺ SỐ 30: HỎA VI LY - THIÊN QUAN TỨ PHƯỚC

1. Quẻ Hỏa Vi Ly trong Kinh Dịch

Tổng quan quẻ Hỏa Vi Ly

Quẻ Hỏa Vi Ly

Quẻ Hỏa Vi Ly (hoặc Thuần Ly), hay được gọi là Quẻ Ly, là quẻ số 30 trong 64 Quẻ Kinh Dịch thuộc loại quẻ Cát.

Ngoại quái: ☲ Ly (離) - Hỏa (火) tức Hỏa - Ngũ hành Hỏa.

Nội quái: ☲ Ly (離) - Hỏa (火) tức Hỏa - Ngũ hành Hỏa.

Thuộc nhóm tượng quái Ly, Ngũ hành Hỏa.

Quẻ Ly tượng trưng cho sự nương tựa thoát khỏi hung hiểm. Tuy có thể nương tựa khi cần nhưng vẫn phải tự bản thân cố gắng. Nên sáng suốt nương tựa bậc hiền tài thì mới thu được thành quả tốt.

Thoán từ:

Lời kinh: 離利貞, 亨, 畜牝牛, 吉.

Dịch âm: Ly lợi trinh, hanh, xúc tẫn ngưu, cát.

Dịch nghĩa: Dựa, lệ thuộc: chính đáng thì lợi, hanh thông. Nuôi bò cái thì tốt.

Ly: Lệ dã. Sáng chói. Sáng sủa, trống trải, trống trơn, tỏa ra, bám vào, phụ bám, phô trương ra ngoài. Môn hộ bất ninh chi tượng: tượng nhà cửa không yên.
Khảm là hãm, hãm thì phải có chỗ nương tựa, cho nên sau quẻ Khảm tới quẻ Ly. Ly [離 ] là lệ [ 麗] ; thời xưa hai chữ đó đọc như nhau, dùng thay nhau được, như nước Cao Ly (Triều Tiên) viết là [高麗 ]. Mà lệ có nghĩa là phụ thuộc vào (như từ ngữ lệ thuộc), dựa vào. Theo hình quẻ, một nét âm ở giữa dựa vào hai nét dương ở trên, dưới.
Ly còn nghĩa thứ nhì là sáng: nét ở giữa dứt, tức là ở giữa rỗng, rỗng thì sáng. Lửa sáng, mặt trời sáng, cho nên Ly có có tượng là lửa, là mặt trời.
Sau cùng Ly còn có nghĩa là rời ra, như chia Ly.
Kinh Dịch mở đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn (trời đất); tới giữa Kinh. (cuối phần thượng của Kinh) là hai quẻ Khảm, Ly, vì hai lẽ.
Ba hào thuần dương là Càn, lấy một hào của Khôn thay vào hào giữa của Càn, thành Ly; ba hào thuần âm là Khôn, lấy một hào của Càn thay vào hào giữa của Khôn, thành Khảm; vậy Ly, Khảm là “thiên địa chi trung”, ở giữa trời, giữa đất; công dụng tạo hóa của trời đất nhờ lửa và nước (Ly và Khảm) cả. Khảm ở chính bắc, Ly ở chính nam; Khảm ở giữa đêm (giờ tí), Ly, ở giữa trưa (giờ ngọ).
Khảm, ở giữa là nét dương, liền, thực, cho nên đức của nó là trung thực. Ly ở giữa là nét đứt, hư, rỗng, cho nên đức của nó là sáng, là văn minh.

Tượng quẻ:

Minh lưỡng tác Ly (Hai lần sáng là Ly)

Ngoại và nội quái đều là Ly. Ly trên Ly dưới có hai ý nghĩa. Đó là mỗi quái của quẻ đều ở hào Âm ở giữa nương tựa vào hào Dương xung quanh có nghĩa là chính đạo nên mọi việc được hanh. Hoặc ý nghĩa là nuôi bằng đức thuận, anh minh, sáng suốt nên được cát.

Dựa vào chỗ chính đáng, chẳng hạn vào người quân tử thì hanh thông. Dựa vào người thì phải sáng suốt, và thuận theo người, vậy phải nuôi đức thuận, đức của con bò cái (loài này dễ bảo nhất) thì mới tốt.
Ly còn nghĩa là sáng. Quẻ thuần Ly, trên dưới đều là Ly, sáng quá, sáng suốt quá, tỏ mình hơn người thì ít người ưa, cho nên phải giấu bớt cái sáng đi mà trau giồi đức thuận.
Thoán truyện bảo phải có đức trung chính nữa như hào 2 và hào 5 (hào này chỉ trung thôi, nhưng đã đắc trung thì cũng ít nhiều đắc chính) như vậy mới cải hóa được thiên hạ, thành văn minh.

Các hào trong quẻ:

1. Sơ Cửu (Hào 1 dương):

Lời kinh: 初 九: 履錯然, 敬之, 无咎.

Dịch âm: Lý thác nhiên, kính chi, vô cửu.

Dịch nghĩa: Dẫm bậy bạ; phải thận trọng thì không có lỗi.

Giảng nghĩa: Hào dương này có nghĩa nóng nảy, cầu tiến qua, mà còn non nớt, chưa có kinh nghiệm, như đứa trẻ vội vàng dẫm bậy bạ (Phan Bội Châu hiểu là sỏ giày nhố nhăng), tất có lầm lỗi, nên khuyên phải thận trọng (kính chi).

2. Lục Nhị (Hào 2 âm):

Lời kinh: 六 二: 黃離, 元吉.

Dịch âm: Hoàng ly, nguyên cát.

Dịch nghĩa: Sắc vàng phụ vào ở giữa, rất tốt.

Giảng nghĩa: Hào này ở quẻ Ly có đức văn minh, lại đắc trung, đắc chính, trên ứng với hào 5 cũng văn minh, đắc trung, nên rất tốt. Vì ở giữa, văn minh, nên ví với sắc vàng, đẹp, sắc của trưng ương như đã giảng ở hào 5 quẻ Khôn và hào 5 quẻ Phệ hạp.

3. Cửu Tam (Hào 3 dương):

Lời kinh: 九 三: 日昃之離, 不鼓 缶而歌, 則大耋之嗟, 凶.

Dịch âm: Nhật trắc chi Ly, bất cổ phẩu nhi ca, tắc đại diệt chi ta, hung.

Dịch nghĩa: Mặt trời xế chiều lặn, (ý nói người già, tính tình thất thường, không đáng vui mà vui. Không đáng buồn mà buồn). Khi thì gõ cái phẫu (vò bằng đất, đựng rượu mà cũng dùng làm nhạc khí) mà hát, lúc lại than thân già nua; xấu , (Hồi xưa khi hát thì gõ nhịp bằng cái phẫu).

Giảng nghĩa: Hào 3 này ở trên cùng nội quái ly, như mặt trời sắp lặn mà chưa lên ngoại quái Ly, chưa tới lúc mặt trời mọc (sáng hôm sau).
Câu: "bất cổ phẫu nhi ca, tắc dại diệt chi ta", Chu Hi hiểu là "chẳng yên phận mà vui vẻ, mà lại than thở vì già nua, thế là không biết tự xử."

4. Cửu Tứ (Hào 4 dương):

Lời kinh: 九 四: 突如, 其來如, 焚如, 死如, 棄如.

Dịch âm: Đột như, kì lai như, phần như, tử như, khí như.

Dịch nghĩa: Thình lình chạy tới, như muốn đốt người ta vậy, thì sẽ chết, bị mọi người bỏ.

Giảng nghĩa: Hão này dương cương, nóng nảy, bất chính, bất trung, mới ở nội quái lên, gặp hào 5 âm nhu, muốn lấn át 5, như một người ở đâu thình lình tới, lồn lộn lên muốn đốt người ta (hào 5) , táo bạo, vụng về như vậy làm sao khỏi chết, có ai dung được nó đâu.

5. Lục Ngũ (Hào 5 âm):

Lời kinh: 六 五: 出涕沱若, 戚嗟若, 吉.

Dịch âm: Xuất thế đà nhược, thích ta nhược, cát.

Dịch nghĩa: Nước mắt ròng ròng, nhưng biết buồn lo than thở, nên tốt.

Giảng nghĩa: Hào này âm nhu, ở ngôi tôn, trung những không chính, bị ép giữa hào hào dương, mắc vào hoàn cảnh khó khăn, cho nên bảo là "nước mắt ròng ròng"; nhưng nhờ đức văn minh của quẻ Ly, nên là người biết lo tính, than thở, tìm cách đối pó với hoàn cảnh được, cho nên rồi sẽ tốt.

6. Thượng Cửu (Hào 6 dương):

Lời kinh: 上 九: 王用出征, 有嘉; 折首, 獲匪其醜, 无咎.

Dịch âm: Vương dụng xuất chinh, Hữu gia; chiết thủ, hoạch phỉ kì xú, vô Cửu.

Dịch nghĩa: Vua dùng (người có tài, tức hào này) để ra quân chinh phạt, có công tốt đẹp, giết đầu đảng mà bắt sống kẻ xấu đi thì thôi, như vậy thì không có lỗi.

Giảng nghĩa: Hào này dương cương lại ở trên cùng quẻ Ly, thế là vừa cương quyết vừa sáng suốt đến cực điểm, vua dùng tài ấy để trừ kẻ gian tà thì thành công lớn.
Nhưng vì cương quá thì dễ hóa tàn bạo, nên Hào từ khuyên dẹp loạn thì chỉ nên giết những kẻ đầu sỏ, còn những kẻ đi theo thì bắt sống thôi. Như vậy sẽ không có lỗi.

2. Quẻ Hỏa Vi Ly trong thuật chiêm bốc, đoán quẻ

Ý nghĩa quẻ Ly

Trong chiêm bốc, dự trắc Ly có nghĩa là:

  • Là lệ, tráng lệ, lộng lẫy, sáng đẹp, văn minh
  • Hỷ khánh chi sự (vui vẻ may mắn, "thiên quan tứ phúc" ánh sáng chiếu tới chính là sự may mắn), sáng tỏ, sự thông tỏ, là phúc đức trời ban. (Ví dụ thi cử đỗ đạt, cuộc đời thông suốt, hanh thông, phúc dày)
  • Lệ thuộc, bám dính (bám đúng chỗ) "Chim khôn đậu nóc nhà quan". (Trong trời đất mọi vật đều cần phải bám phải, nếu bám đúng chỗ thì hanh thông, ngược lại không bám đúng chỗ thì là mắc vậy).
  • Là mắc, mắc kẹt (bám không đúng chỗ), vướng mắc, vây khốn, mắc do bên trong.
  • Là lệ (nước mắt) thường là lệ của hạnh phúc. (Quẻ Lôi Địa Dự là nước mắt của niềm vui cũng là nước mắt của sự đau khổ).
  • Mắt, mồm, quả tim (Nếu động hào 5 biến ra Thiên Hoả Đồng nhân: Càn là mũi tên xuyên qua
  • Xe cộ (Ly là xe máy, còn Khảm là ô tô), trâu cái, trai, ốc, cua, tò vò, áo giáp, mũ sắt, mũi tên đồng. Tượng huyệt kết (huyệt nổi khum khum như vỏ trai).
  • Chim vàng anh, chim hót, tằm nhả tơ (tượng có chim hót, sinh ra người văn chương giỏi)
  • Mặt trời, ánh sáng, lửa đang cháy sáng (Ly là mặt trời, Càn là bầu trời).
  • Trống rỗng (Ly trung hư), không có gì thực. (Ví dụ: chủ tịch công đoàn có tiếng không có thực quyền)
  • Là sơn thần thú (山神獸 thần núi hình thú, là thần hay xuất hiện lúc mặt trời lặn, người ta hay cúng bằng gia cầm).
  • Sa lưới, "Trĩ ly vu la" (gà rừng sa lưới). (Tù ngục: quẻ Ly bị bắt, quẻ Độn trốn

Triệu và điềm của quẻ Ly

Quẻ Ly có triệu Thiên Quan Tứ Phước - Phát phúc sinh tài. Có bài thơ như sau:

Gieo được quẻ này, gặp Thiên Quan,
Phúc lộc tự nhiên, đến rất nhiều.
Mọi việc kinh doanh, đều có lợi,
Buồn lo thì mất, chủ bình an.

Tích xưa: Ngày xưa, Lã Mông thuở hàn vi phải đi ăn xin, đã gieo được quẻ này. Quả nhiên, về sau ông vào kinh ứng thi, đỗ trạng nguyên. Đúng là ứng với quẻ "Thiên quan tứ phúc", thật là "Phát phúc sinh tài".

Lời bàn quẻ: Vận may trong cuộc đời con người là có thật. Cùng buôn một mặt hàng, cùng bán một chợ, có kẻ hàng bán chạy, có kẻ hàng ế ẩm. Có người mua rất nhiều vé xổ số vẫn không trúng, nhưng có kẻ chỉ mua một lần đã trúng số độc đắc, ăn cả đời không hết. Nếu có vận may thường cũng có vận rủi đi kèm. Vì vậy, ta nên đề phòng
Thiên quan chiếu mạng, chủ lộc nhiều, buôn bán có lợi lớn, làm việc gì cũng có lợi.
Ngày xưa, Lã Mông thuở hàn vi phải đi ăn xin, đã gieo được quẻ này. Quả nhiên, về sau ông vào kinh ứng thi, đỗ trạng nguyên. Đúng là ứng với quẻ "Thiên quan tứ phúc", thật là "Phát phúc sinh tài".

Lời đoán quẻ: Mọi việc hanh thông, ra ngoài vui vẻ, tai qua nạn khỏi, bệnh tật tiêu tan.

Dụng thần quẻ Ly

Quẻ Ly có đủ lục thân nên không có Phi Thần, Phục Thần.