KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 51 - TRẠCH VI ĐOÀI ĐỘNG HÀO TAM
1. Quẻ Trạch Vi Đoài trong Kinh Dịch
Trạch Vi Đoài: Duyệt dã. Hiện đẹp. Đẹp đẽ, ưa thích, vui hiện trên mặt, không buồn chán, cười nói, khuyết mẻ. Hỉ dật mi tu chi tượng: tượng vui hiện trên mặt, khẩu khí.
Tốn có nghĩa là nhập vào, hễ nhập được vào lòng nhau, hiểu lòng nhau, thì mới ưa nhau mà hoà duyệt, vui vẻ với nhau, cho nên sau quẻ Tốn tới quẻ Đoài. Đoài là chằm mà cũng có nghĩa là hoà duyệt.
Quẻ Đoài là mát mẻ được thêm phần mát mẻ, chung sống hòa duyệt với nhau. Quẻ này tâm ý chính đính, bộ mặt hòa nhã. Quẻ này hay ở chỗ giữ được chính đạo, khoan hòa giữa mọi người. Cứng trong ngoài mềm tạo lợi chính bền mọi sự hanh thông.
Hình ảnh quẻ Trạch Vi Đoài
Thoán từ: Đoài hanh lợi trinh.
Vui thì hanh thông. Hợp đạo chính thì lợi.
Tượng quẻ: Cả nội quái và ngoại quái đều là Đoài. Mỗi quái có hai hào dương ở dưới, một hào âm ở trên có nghĩa là cương thì ở trong còn nhu thì ở ngoài. Dùng cương cường kết hợp với hòa nhã để hoàn thành công việc.
Đoài là chằm, cũng là thiếu nữ. Nước chằm làm cho cây cỏ vui tươi, sinh vật vui thích; thiếu nữ làm cho con trai vui thích. Vui thích thì hanh thông, miễn là phải hợp với đạo chính; phải ngay thẳng, thành thực, đoan chính. Đoài có hai hào dương ở phía trong, một hào âm ở ngoài, nghĩa là trong lòng phải thành thực rồi ngoài mặt nhu hoà, như vậy là hợp với đạo chính, tốt.
Thoán truyện – Giảng rộng ra: vui vẻ mà hợp với đạo chính thì là thuận với trời, hợp với người. Vui vẻ mà đi trước dân thì dân quên khó nhọc; vui vẻ mà xông vào chốn nguy hiểm thì dân quên cái chết mà cũng xông vào; đạo vui vẻ (làm gương cho dân) thật lớn thay; khuyến khích dân không gì bằng.
Đại Tượng truyên thiên về sự tu thân, khuyên người quân tử nên họp bạn cùng nhau giảng nghĩa lý, đạo đức, rồi cùng nhau thực hành (dĩ bằng hữu giảng tập), để giúp ích cho nhau mà hai bên cùng vui vẻ.
2. Quẻ Trạch Vi Đoài động hào tam theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
空空空
空裏得成功
蟠桃千載熟
不怕五更風.
Dịch âm:
Không không không
Không lý đắc thành công
Bàn đào thiên tải thục
Bất phạ ngũ canh phong.
Dịch nghĩa:
Không không không
Trong không được thành công
Bàn đào ngàn năm chín
Nào sợ gió canh năm.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Lai đoài, hung." (Sự vui vẻ đến. Hào này có sự hung
hiểm.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, căn cơ đã kiên cố thì không sợ bị
lung lay. Không mà lại chẳng không, cho nên tự nhiên sẽ phát đạt. Bạn nên cố gắng không ngừng, ngày vinh quang ắt sẽ đến. Sự hung hiểm rồi sẽ qua, thời vận tốt đẹp tới. Mọi việc sẽ như ý toại lòng. Cầu tài cầu việc đều thành tựu.
Chứa lâu ắt phải chướng, uất lâu ắt phải bật. Căn cơ đã kiên cố thì khỏi cần phải lung lay rung chuyển. Không mà lại chẳng không, cho nên tự nhiên phát đạt. Đó là cái tượng của quẻ này. Người xin được quẻ này nên biết rằng: nhà nào tích thiện ắt có thừa phúc, do đó có thể ngồi đợi được.
Đầu hai câu của quẻ thơ nói, mới xem qua thì làm người khó hiểu. Thực vậy không làm sao mà thành công được. Nhưng ta nếu xem qua cuốn lịch Tàu trong bài Quang Hiền văn có câu "Cao thảo chi hạ hửu la, hương mao lư chi ốc xuất lương tướng". Nghĩa là trong cỏ rác còn có bông lan. Nhà nghèo tạo nên tướng soái. Đó là cho chúng ta dẫn chứng triết lý hai câu đấy.
Như thể những việc cầu xin của người, nên cố gắng không ngừng, ngày vinh quang ắt có trong đời của người vinh hoa phú quý vậy.
Quẻ dạy: Tốt đẹp thời vận thái. Sự sự như ý toại lòng, làm chơi ăn thiệt. Cầu tài cầu mưu thành tựu. Đánh số hạp.
Con số linh ứng: 1, 5, 10, 11, 15, 50, 51, 55.