KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 53 - TRẠCH VI ĐOÀI ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Trạch Vi Đoài trong Kinh Dịch

Trạch Vi Đoài: Duyệt dã. Hiện đẹp. Đẹp đẽ, ưa thích, vui hiện trên mặt, không buồn chán, cười nói, khuyết mẻ. Hỉ dật mi tu chi tượng: tượng vui hiện trên mặt, khẩu khí.
Tốn có nghĩa là nhập vào, hễ nhập được vào lòng nhau, hiểu lòng nhau, thì mới ưa nhau mà hoà duyệt, vui vẻ với nhau, cho nên sau quẻ Tốn tới quẻ Đoài. Đoài là chằm mà cũng có nghĩa là hoà duyệt.

Quẻ Đoài là mát mẻ được thêm phần mát mẻ, chung sống hòa duyệt với nhau. Quẻ này tâm ý chính đính, bộ mặt hòa nhã. Quẻ này hay ở chỗ giữ được chính đạo, khoan hòa giữa mọi người. Cứng trong ngoài mềm tạo lợi chính bền mọi sự hanh thông.

Hình ảnh quẻ Trạch Vi Đoài

Thoán từ: Đoài hanh lợi trinh.

Vui thì hanh thông. Hợp đạo chính thì lợi.

Tượng quẻ: Cả nội quái và ngoại quái đều là Đoài. Mỗi quái có hai hào dương ở dưới, một hào âm ở trên có nghĩa là cương thì ở trong còn nhu thì ở ngoài. Dùng cương cường kết hợp với hòa nhã để hoàn thành công việc.

Đoài là chằm, cũng là thiếu nữ. Nước chằm làm cho cây cỏ vui tươi, sinh vật vui thích; thiếu nữ làm cho con trai vui thích. Vui thích thì hanh thông, miễn là phải hợp với đạo chính; phải ngay thẳng, thành thực, đoan chính. Đoài có hai hào dương ở phía trong, một hào âm ở ngoài, nghĩa là trong lòng phải thành thực rồi ngoài mặt nhu hoà, như vậy là hợp với đạo chính, tốt.
Thoán truyện – Giảng rộng ra: vui vẻ mà hợp với đạo chính thì là thuận với trời, hợp với người. Vui vẻ mà đi trước dân thì dân quên khó nhọc; vui vẻ mà xông vào chốn nguy hiểm thì dân quên cái chết mà cũng xông vào; đạo vui vẻ (làm gương cho dân) thật lớn thay; khuyến khích dân không gì bằng.
Đại Tượng truyên thiên về sự tu thân, khuyên người quân tử nên họp bạn cùng nhau giảng nghĩa lý, đạo đức, rồi cùng nhau thực hành (dĩ bằng hữu giảng tập), để giúp ích cho nhau mà hai bên cùng vui vẻ.

2. Quẻ Trạch Vi Đoài động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

須著力
莫遠遊
長竿釣向蟾蜍窟
直欲雲中得巨鼇.

Dịch âm:

Tu trước lực
Mạc viễn du
Trường can điếu hướng thiềm thừ quật
Trực dục vân trung đắc cự ngao.

Dịch nghĩa:

Hãy gắng sức
Đừng chơi xa
Cần câu dài thả xuống hang cóc
Thẳng muốn trong mây câu được ngao (con ba ba lớn).

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Phu vu Bác, hữu lệ." (Làm tù binh ở nước Bác. Hào này có hung hiểm.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về muốn làm ăn và phát đạt tất nhiên phải nhọc sức, trải qua bao nhiêu vất vả khổ cực mới có ngày tươi sáng được. Bạn nên cố sức mà làm, đừng có cao vọng, thì mới được thư thả phần nào. Càng cao vọng càng thất bại, mọi việc đều bất thông. Cầu danh, cầu lợi đều khó đạt thành.
Quẻ này chủ muốn tính toán làm ăn tất nhiên là phải nhọc sức.
Trong khi bôn ba vất vả, nếu không dụng vào những công việc: sắt, súng, kim châm, đá mài, thì không thể nào bước dần vào gia cảnh được.
Người xin được quẻ này có hy vọng tiến tới được, song trước hết, phải trải qua bao nhiêu tàn khổ mới có ngày tươi sáng được.
Theo quẻ thơ nói: Người hãy nên cố sức mà làm và đừng đặt cao vọng quá, thì mới được thư thả phần nào. Nếu không, kết quả của sự cầu mưu của người ắt như thả câu vào hang cóc, bắt cá trên cây và xây lầu trên mây rút cuộc chỉ là hư không, mà lại tốn công hao sức thôi chẳng lợi ích gì cả.
Quẻ dạy: Mọi việc nên đình đốn. An phận là hơn. Quá cao vọng càng thất bại. Nên chờ đợi. Mọi việc đều bất thông. Cầu danh, cầu lợi khó mong đạt. Đánh số e bị thua. Biểu tượng: cá, cóc.

Con số linh ứng: 3, 5, 30, 33, 35, 50, 53, 55.