KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 54 - TRẠCH VI ĐOÀI ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Trạch Vi Đoài trong Kinh Dịch

Trạch Vi Đoài: Duyệt dã. Hiện đẹp. Đẹp đẽ, ưa thích, vui hiện trên mặt, không buồn chán, cười nói, khuyết mẻ. Hỉ dật mi tu chi tượng: tượng vui hiện trên mặt, khẩu khí.
Tốn có nghĩa là nhập vào, hễ nhập được vào lòng nhau, hiểu lòng nhau, thì mới ưa nhau mà hoà duyệt, vui vẻ với nhau, cho nên sau quẻ Tốn tới quẻ Đoài. Đoài là chằm mà cũng có nghĩa là hoà duyệt.

Quẻ Đoài là mát mẻ được thêm phần mát mẻ, chung sống hòa duyệt với nhau. Quẻ này tâm ý chính đính, bộ mặt hòa nhã. Quẻ này hay ở chỗ giữ được chính đạo, khoan hòa giữa mọi người. Cứng trong ngoài mềm tạo lợi chính bền mọi sự hanh thông.

Hình ảnh quẻ Trạch Vi Đoài

Thoán từ: Đoài hanh lợi trinh.

Vui thì hanh thông. Hợp đạo chính thì lợi.

Tượng quẻ: Cả nội quái và ngoại quái đều là Đoài. Mỗi quái có hai hào dương ở dưới, một hào âm ở trên có nghĩa là cương thì ở trong còn nhu thì ở ngoài. Dùng cương cường kết hợp với hòa nhã để hoàn thành công việc.

Đoài là chằm, cũng là thiếu nữ. Nước chằm làm cho cây cỏ vui tươi, sinh vật vui thích; thiếu nữ làm cho con trai vui thích. Vui thích thì hanh thông, miễn là phải hợp với đạo chính; phải ngay thẳng, thành thực, đoan chính. Đoài có hai hào dương ở phía trong, một hào âm ở ngoài, nghĩa là trong lòng phải thành thực rồi ngoài mặt nhu hoà, như vậy là hợp với đạo chính, tốt.
Thoán truyện – Giảng rộng ra: vui vẻ mà hợp với đạo chính thì là thuận với trời, hợp với người. Vui vẻ mà đi trước dân thì dân quên khó nhọc; vui vẻ mà xông vào chốn nguy hiểm thì dân quên cái chết mà cũng xông vào; đạo vui vẻ (làm gương cho dân) thật lớn thay; khuyến khích dân không gì bằng.
Đại Tượng truyên thiên về sự tu thân, khuyên người quân tử nên họp bạn cùng nhau giảng nghĩa lý, đạo đức, rồi cùng nhau thực hành (dĩ bằng hữu giảng tập), để giúp ích cho nhau mà hai bên cùng vui vẻ.

2. Quẻ Trạch Vi Đoài động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

無蹤無跡
遠近難覓
旱海行舟
空勞費力.

Dịch âm:

Vô tung vô tích
Viễn cận nan mịch
Hạn hải hành châu
Không lao phí lực.

Dịch nghĩa:

Không thấy tung tích
Xa gần khó tìm
Thuyền đi biển cạn
Uổng công phí sức.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Dẫn đoài." (Đưa người tới để thuyết phục.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về mọi việc đều không tốt. Trong trường hợp gian nan này, nếu sớm biết tỉnh ngộ thì cũng có thê vãn hồi nghịch cảnh và mua chuộc được lòng người. Hiện thời vận của bạn vẫn còn bế tắc, chưa thể làm ăn gì được, hỏi bệnh thì chẳng lợi, hỏi việc thì không thành. Nếu hỏi về việc của cải bị mất mát thì khó mà tìm lại. Cầu danh, cầu tài khó thành.
Quẻ này chủ mọi việc đều không tốt: bói xem bệnh thì chẳng lợi, hỏi danh và tài thì cả hai đều không xem thai nghén thì sản phụ hoảng kinh, tìm người đi thì người đi không tới, hỏi mưu sự thì mọi việc không thành.
Trong trường hợp thiên niên vạn nạn này, nếu biết tỉnh ngộ mau lẹ thì cũng có thể vản hồi được cảnh ngộ và thuận thao được lòng người.
Ý quẻ nói rằng: Hiện nay, thời vận của con người vẫn còn bế tắc, chưa thể làm ăn gì được, mà phải theo lối sống lâu nay là hơn. Còn nếu cần hỏi về việc của cải mất lạc thì khó tìm lại.
Sở dĩ tôi dám bàn giải như vậy là căn cứ bốn câu thơ trên nói rằng không hình bóng, kiếm khắp xa gần chẳng thấy, vậy nếu xin hỏi mất đồ còn hy vọng gì. Và hai câu sau nói: Biển cạn không nước thuyền làm sao đi được, đó có phải hao công tốn sức chăng.
Quẻ dạy: An phận thủ thường, giữ mức cũ. Công việc bế tắc, xoay sở mấy cũng thất bại. Đau bệnh gặp thầy, mất đồ khó kiếm. Cầu mưu, cầu tài còn lâu, lúng túng là khác. Đánh số khó trúng.

Con số linh ứng: 4, 5, 40, 44, 45, 50, 54, 55.