KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 88 - TRẠCH THỦY KHỐN ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Trạch Thủy Khốn trong Kinh Dịch

Trạch Thủy Khốn: Nguy dã. Nguy lo. Cùng quẫn, bị người làm ác, lo lắng, cùng khổ, mệt mỏi, nguy cấp, lo hiểm nạn. Thủ kỷ đãi thời chi tượng: tượng giữ mình đợi thời.
Lên cao mãi thì có lúc sẽ té mà khốn, cho nên sau quẻ Thăng tới quẻ Khốn.

Quẻ Khốn ngoại quái hào âm đè lên hào dương, nội quái hào dương bị hào âm vây quanh nên gặp nguy khốn âu cũng là lẽ thường. Người gặp cảnh khốn vẫn có thể điềm tĩnh, vui vẻ, không oán thán mà thay vào đó là tự trau dồi đức hạnh của mình.

Hình ảnh quẻ Trạch Thủy Khốn

Thoán từ: Khốn, hanh trinh, đại nhân cát, vô cữu, hữu ngôn bất

Khốn: Hanh thông. Chính đính như bậc đại nhân (có đức) thì tốt, không lỗi. Dù nói gì cũng không bày tỏ được lòng mình (không ai nghe mình)

Tượng quẻ: Ngoại quái Đoài, nội quái Khảm nghĩa là nước ở đầm chảy xuống sông sâu nên cạn đi, do vậy mới khốn.

Quẻ Khảm là dương ở cuối, quẻ đoài là âm ở trên , dương cương (quân tử) bị âm nhu (tiểu nhân) che lấp, cho nên gọi là Khốn.
Lại thêm: nội quái một hào dương bị kẹt giữa hai hào âm; ngoại quái hai hào dương ở dưới một hào âm, cùng là cái tượng quân tử bị tiểu nhân làm khốn.
Một cách giảng nữa: Chằm (Đoài) ở trên mà Khảm (nước) ở dưới, nước trong chằm chảy xuống dưới, tiết mất hết, chằm sẽ khô, thành ra cái tượng Khốn.
Tuy nhiên, Khảm là hiểm, đoài là hoà duyệt, vậy tuy gặp hiểm mà vẫn vui vẻ hanh thông. Hanh thông chỉ là đối với bậc đại nhân, có đức cương, trung, giữ đạo chính thôi; vì hạng người đó càng gặp cảnh khốn, tài càng được luyện; đức càng được trau, chí càng vững dù có phải hy sinh tính mệnh để thỏa chí nguyện cũng không ngại, thân tuy khốn mà vẫn vui vẻ, đạo của họ vẫn hanh thông, cho nên Hào từ cho là tốt, không có lỗi.
Ở vào thời Khốn, chỉ có cường quyền, không có công lý, nên đừng nói gì cả, càng nói chỉ càng thêm vạ miệng, không biện bạch được gì đâu. Đây là lời khuyên chung, còn bậc quân tử có thể "sát thân dĩ thành nhân" thì lại khác.

2. Quẻ Trạch Thủy Khốn động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

獨釣寒潭
中途興闌
水寒魚不餌
空載月明還.

Dịch âm:

Độc điếu hàn đàm
Trung đồ hưng lan
Thuỷ hàn ngư bất nhĩ
Không tải nguyệt minh hoàn.

Dịch nghĩa:

Một mình câu ở đầm lạnh
Nửa chừng sóng dậy phá tan cuộc cờ
Nước lạnh cá không ăn mồi
Trời trong trăng sáng đành quay về.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Lai từ từ, khốn vu kin xa. Lận, hữu chung." (Ngồi trên xe vàng mà gặp khó khăn trở ngại trên đường, nên đến chậm. Hào này có hơi khó khăn, cuối cùng lại tốt.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về xuất hành thì thất thế, cầu tài thì thâm vốn, kiện tụng thì phải nhờ người, hôn nhân thì khó thành, giao dịch thì không có hy vọng, xem bệnh thì khó lành. Những mưu cầu của bạn khó mà toại ý, dù cố gắng đến đâu, tay trắng vẫn là tay trắng, đành phải chờ đợi thời cơ khác. Cầu tài, cầu danh đều thất bại.
Quẻ này chủ cầu mưa chẳng đạt, xuất hành thì thất thế. Cầu tài thì mất vốn, tìm người thì sinh miệng lưỡi, kiện tụng thì phải nhờ người, hôn nhân thì không thành, giao dịch thì vô vọng, xem bệnh thì thấy tai họa. Tóm lại tất cả đều không tốt.
Theo quẻ thơ tả cảnh tình của người hiện nay. Như người cô đơn câu cá nơi vực lạnh, và nửa chừng lại nổi sóng gió thì cá đâu chịu ăn, rút cuộc chờ trăng về thôi.
Đó ý nói rằng: Công việc cầu xin của bạn khó mà toại theo ý nguyện, dù cố gắng đến đâu, tay trắng vẫn là tay trắng, như câu thơ chót nói "Đành tay trắng, chở trăng huy hoàng" vậy.
Quẻ dạy: Thất bại, đổ vỡ có thể tù tội, câu cá trong đêm lạnh mà lại có sóng gió nữa, thì cá nào ăn chớ? Câu trong đầm nhỏ hẹp, ý là bị giam giữ trong ao tù. Chớ tính, chớ đợi. Cầu tài, cầu danh thất bại. Đánh số chẳng đến đâu, biểu tượng: cá.

Con số linh ứng: 8, 18, 28, 38, 80, 88.