KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 86 - TRẠCH THỦY KHỐN ĐỘNG HÀO NHỊ
1. Quẻ Trạch Thủy Khốn trong Kinh Dịch
Trạch Thủy Khốn: Nguy dã. Nguy lo. Cùng quẫn, bị người làm ác, lo lắng, cùng khổ, mệt mỏi, nguy cấp, lo hiểm nạn. Thủ kỷ đãi thời chi tượng: tượng giữ mình đợi thời.
Lên cao mãi thì có lúc sẽ té mà khốn, cho nên sau quẻ Thăng tới quẻ Khốn.
Quẻ Khốn ngoại quái hào âm đè lên hào dương, nội quái hào dương bị hào âm vây quanh nên gặp nguy khốn âu cũng là lẽ thường. Người gặp cảnh khốn vẫn có thể điềm tĩnh, vui vẻ, không oán thán mà thay vào đó là tự trau dồi đức hạnh của mình.
Hình ảnh quẻ Trạch Thủy Khốn
Thoán từ: Khốn, hanh trinh, đại nhân cát, vô cữu, hữu ngôn bất
Khốn: Hanh thông. Chính đính như bậc đại nhân (có đức) thì tốt, không lỗi. Dù nói gì cũng không bày tỏ được lòng mình (không ai nghe mình)
Tượng quẻ: Ngoại quái Đoài, nội quái Khảm nghĩa là nước ở đầm chảy xuống sông sâu nên cạn đi, do vậy mới khốn.
Quẻ Khảm là dương ở cuối, quẻ đoài là âm ở trên , dương cương (quân tử) bị âm nhu (tiểu nhân) che lấp, cho nên gọi là Khốn.
Lại thêm: nội quái một hào dương bị kẹt giữa hai hào âm; ngoại quái hai hào dương ở dưới một hào âm, cùng là cái tượng quân tử bị tiểu nhân làm khốn.
Một cách giảng nữa: Chằm (Đoài) ở trên mà Khảm (nước) ở dưới, nước trong chằm chảy xuống dưới, tiết mất hết, chằm sẽ khô, thành ra cái tượng Khốn.
Tuy nhiên, Khảm là hiểm, đoài là hoà duyệt, vậy tuy gặp hiểm mà vẫn vui vẻ hanh thông. Hanh thông chỉ là đối với bậc đại nhân, có đức cương, trung, giữ đạo chính thôi; vì hạng người đó càng gặp cảnh khốn, tài càng được luyện; đức càng được trau, chí càng vững dù có phải hy sinh tính mệnh để thỏa chí nguyện cũng không ngại, thân tuy khốn mà vẫn vui vẻ, đạo của họ vẫn hanh thông, cho nên Hào từ cho là tốt, không có lỗi.
Ở vào thời Khốn, chỉ có cường quyền, không có công lý, nên đừng nói gì cả, càng nói chỉ càng thêm vạ miệng, không biện bạch được gì đâu. Đây là lời khuyên chung, còn bậc quân tử có thể "sát thân dĩ thành nhân" thì lại khác.
2. Quẻ Trạch Thủy Khốn động hào nhị theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
野鬼張弧射主人
暗中一箭鬼魂驚
忽然紅日沉江海
難破空中事不明.
Dịch âm:
Dã quỉ trương hồ xạ chủ nhân
Ám trung nhứt tiễn quỉ hồn kinh
Hốt nhiên hồng nhựt trầm giang hải
Nan phá không trung sự bất minh.
Dịch nghĩa:
Quỷ đồng trương cung bắn chủ nhân
Khua vang bóng tối quỉ hồn kinh
Thình lình bóng đổ rơi trong biển
Tình sự không bàn được rõ minh.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Khốn vu tửu thực, chu phất phương lai. Lợi dụng hưởng tự, chinh hung, vô cữu." (Rượu thịt thường làm ta khốn đốn. Có người mặc áo đỏ tới. Hào này có lợi về việc tế tự. Không lợi về việc xuất chinh. Không có tai họa.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về bọn gian nịnh kết thành bầy lũ. Trong hoàn cảnh này, bạn cần giữ lòng chính trực, làm việc cho mình bạn. Những mưu cầu của bạn khó mà được như ý, nên đề phòng tiểu nhân. Cầu tài, cầu việc chưa thông.
Quẻ này chủ về việc đứa tiểu nhân khinh lờn qua mặt. Bọn gian nịnh kết thành bầy lũ, đàn lang sói cản đường, đàn hồ ly ghẹo cợt. Đứng trước hoàn cảnh này, cần giữ lòng mình chính trực, làm việc đàng hoàng minh bạch không loanh quanh tầm bậy, ấy thế mà chưa khỏi cảnh bị người dèm chê, bị người áp chế đè nén.
Bởi thế chẳng may xin phải quẻ này, thiệt tưởng nên rút lui về mà đứng đằng sau người, mong tránh những điều nguy hiểm trở ngại, chớ có xuất đầu lộ diện, xông lên mà có nguy hại cho mình.
Theo bài quẻ cho biết người cầu xin được quẻ này, vận thời của người vẫn chưa được hanh thông, bởi vì còn trong cảnh như tớ phản chủ. Tiểu nhân mưu toan và mặt trời lặn tây vậy, toàn là kém may mắn cả.
Vậy tất cả sự cầu xin của người khó mà như ý, nhưng nếu người theo sát vấn đề sở cầu, giải quyết từng khó khăn khi vấp phải thì cũng dễ thở phần nào, dù không thành đạt mỹ mãn.
Quẻ dạy: Phòng tiểu nhân thất bại. Xấu, mặt trời lặn còn đâu ánh sáng mà đi, nghĩa là đang lúc túng, bế tắc. Cầu tài, cầu mưu bất thông. Đánh số không lợi.
Con số linh ứng: 6, 16, 26, 36, 60, 66.