KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 89 - TRẠCH THỦY KHỐN ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Trạch Thủy Khốn trong Kinh Dịch

Trạch Thủy Khốn: Nguy dã. Nguy lo. Cùng quẫn, bị người làm ác, lo lắng, cùng khổ, mệt mỏi, nguy cấp, lo hiểm nạn. Thủ kỷ đãi thời chi tượng: tượng giữ mình đợi thời.
Lên cao mãi thì có lúc sẽ té mà khốn, cho nên sau quẻ Thăng tới quẻ Khốn.

Quẻ Khốn ngoại quái hào âm đè lên hào dương, nội quái hào dương bị hào âm vây quanh nên gặp nguy khốn âu cũng là lẽ thường. Người gặp cảnh khốn vẫn có thể điềm tĩnh, vui vẻ, không oán thán mà thay vào đó là tự trau dồi đức hạnh của mình.

Hình ảnh quẻ Trạch Thủy Khốn

Thoán từ: Khốn, hanh trinh, đại nhân cát, vô cữu, hữu ngôn bất

Khốn: Hanh thông. Chính đính như bậc đại nhân (có đức) thì tốt, không lỗi. Dù nói gì cũng không bày tỏ được lòng mình (không ai nghe mình)

Tượng quẻ: Ngoại quái Đoài, nội quái Khảm nghĩa là nước ở đầm chảy xuống sông sâu nên cạn đi, do vậy mới khốn.

Quẻ Khảm là dương ở cuối, quẻ đoài là âm ở trên , dương cương (quân tử) bị âm nhu (tiểu nhân) che lấp, cho nên gọi là Khốn.
Lại thêm: nội quái một hào dương bị kẹt giữa hai hào âm; ngoại quái hai hào dương ở dưới một hào âm, cùng là cái tượng quân tử bị tiểu nhân làm khốn.
Một cách giảng nữa: Chằm (Đoài) ở trên mà Khảm (nước) ở dưới, nước trong chằm chảy xuống dưới, tiết mất hết, chằm sẽ khô, thành ra cái tượng Khốn.
Tuy nhiên, Khảm là hiểm, đoài là hoà duyệt, vậy tuy gặp hiểm mà vẫn vui vẻ hanh thông. Hanh thông chỉ là đối với bậc đại nhân, có đức cương, trung, giữ đạo chính thôi; vì hạng người đó càng gặp cảnh khốn, tài càng được luyện; đức càng được trau, chí càng vững dù có phải hy sinh tính mệnh để thỏa chí nguyện cũng không ngại, thân tuy khốn mà vẫn vui vẻ, đạo của họ vẫn hanh thông, cho nên Hào từ cho là tốt, không có lỗi.
Ở vào thời Khốn, chỉ có cường quyền, không có công lý, nên đừng nói gì cả, càng nói chỉ càng thêm vạ miệng, không biện bạch được gì đâu. Đây là lời khuyên chung, còn bậc quân tử có thể "sát thân dĩ thành nhân" thì lại khác.

2. Quẻ Trạch Thủy Khốn động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

不歸一
勞心力
貴人旁
宜借力.

Dịch âm:

Bất qui nhất
Lao tâm lực
Quí nhân bàng
Nghi tá lực.

Dịch nghĩa:

Chẳng đồng lòng
Hao tâm sức
Được người giúp
Mới thành công.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tị nguyệt, khốn vu xích phất. Nãi từ hữu thoát. Lợi dụng tế tự." (Bị nhân vạt mặc áo đỏ gây khó khăn, chịu hình phạt cắt mũi chặt chân. Sau đó mới dần dần thoát được cảnh khó khăn, Hào này lợi về cử hành tế tự.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về một mình làm việc, lao tâm lao lực mà việc khó thành, Lúc đầu sẽ gặp nhiều gian nan hung hiểm, về sau phài có quý nhân phò trợ mới có thành tựu. Cầu tài, cầu danh đều phải nương dựa vào người khác.
Quẻ này chủ một mình kinh doanh, lao tâm lao lực, công việc thì nhiều mà công sức may ra chỉ phân nửa. Trong trường hợp này, cần phải có quý nhân phò trợ mới mong chấn hưng được thanh danh cho gia đình, và thành tựu được sự nghiệp của mình.
Khi xin được quẻ này, cần phải lo liệu ngay để đi tìm người giúp đở mình mới được. Theo ý quẻ cho hay, những việc cầu xin của bạn cần phải nương dựa sức người thì mới thành đạt việc mưu cầu của mình.
Và phải dốc lòng chuyên nhứt. Chớ đừng cam tâm hưởng ý thì hỏng, mà hóa ra phí sức hao công. Sở dĩ tôi dám khuyên bạn như thế, là căn cứ vào lời quẻ chỉ dạy trên đây đó.
Quẻ dạy: Kiên tâm và dốc chí. Cần nương chí của người mới kết quả. Cầu tài, cầu danh đều phải nương dựa. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 8, 9, 80, 88, 89, 90, 98, 99.