KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 90 - TRẠCH THỦY KHỐN ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Trạch Thủy Khốn trong Kinh Dịch

Trạch Thủy Khốn: Nguy dã. Nguy lo. Cùng quẫn, bị người làm ác, lo lắng, cùng khổ, mệt mỏi, nguy cấp, lo hiểm nạn. Thủ kỷ đãi thời chi tượng: tượng giữ mình đợi thời.
Lên cao mãi thì có lúc sẽ té mà khốn, cho nên sau quẻ Thăng tới quẻ Khốn.

Quẻ Khốn ngoại quái hào âm đè lên hào dương, nội quái hào dương bị hào âm vây quanh nên gặp nguy khốn âu cũng là lẽ thường. Người gặp cảnh khốn vẫn có thể điềm tĩnh, vui vẻ, không oán thán mà thay vào đó là tự trau dồi đức hạnh của mình.

Hình ảnh quẻ Trạch Thủy Khốn

Thoán từ: Khốn, hanh trinh, đại nhân cát, vô cữu, hữu ngôn bất

Khốn: Hanh thông. Chính đính như bậc đại nhân (có đức) thì tốt, không lỗi. Dù nói gì cũng không bày tỏ được lòng mình (không ai nghe mình)

Tượng quẻ: Ngoại quái Đoài, nội quái Khảm nghĩa là nước ở đầm chảy xuống sông sâu nên cạn đi, do vậy mới khốn.

Quẻ Khảm là dương ở cuối, quẻ đoài là âm ở trên , dương cương (quân tử) bị âm nhu (tiểu nhân) che lấp, cho nên gọi là Khốn.
Lại thêm: nội quái một hào dương bị kẹt giữa hai hào âm; ngoại quái hai hào dương ở dưới một hào âm, cùng là cái tượng quân tử bị tiểu nhân làm khốn.
Một cách giảng nữa: Chằm (Đoài) ở trên mà Khảm (nước) ở dưới, nước trong chằm chảy xuống dưới, tiết mất hết, chằm sẽ khô, thành ra cái tượng Khốn.
Tuy nhiên, Khảm là hiểm, đoài là hoà duyệt, vậy tuy gặp hiểm mà vẫn vui vẻ hanh thông. Hanh thông chỉ là đối với bậc đại nhân, có đức cương, trung, giữ đạo chính thôi; vì hạng người đó càng gặp cảnh khốn, tài càng được luyện; đức càng được trau, chí càng vững dù có phải hy sinh tính mệnh để thỏa chí nguyện cũng không ngại, thân tuy khốn mà vẫn vui vẻ, đạo của họ vẫn hanh thông, cho nên Hào từ cho là tốt, không có lỗi.
Ở vào thời Khốn, chỉ có cường quyền, không có công lý, nên đừng nói gì cả, càng nói chỉ càng thêm vạ miệng, không biện bạch được gì đâu. Đây là lời khuyên chung, còn bậc quân tử có thể "sát thân dĩ thành nhân" thì lại khác.

2. Quẻ Trạch Thủy Khốn động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

雲盡月當中
光輝到處通
路途逢水順
千里快如風.

Dịch âm:

Vân tận nguyệt đương trung
Quang huy đáo xứ thông
Lộ đồ phùng thuỷ thuận
Thiên lý khoái như phong.

Dịch nghĩa:

Mây tan trăng hiện rõ
Chiếu sáng khắp nơi nơi
Đường đi xuôi dòng chảy
Ngàndặm vui như gió.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Khốn vu cát, lũy vu viết ngột. Viết, động hối hữu hối. Chinh cát." (Khốn đốn trong bụi dây leo, bị lúng túng trên cây. Ôi, xui xẻo thay! Hào này có lợi về việc chinh phạt.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về rất nên đi xa. Khi họa đã đi rồi thì phúc tất sẽ đến, không có gì phải lo nghĩ. Đây là điềm trước khó sau dễ, những mưu cầu lâu nay của bạn, từ nay sẽ dần dần toại ý. Hãy mau tiến tới, đừng chần chờ nữa mà mất dịp may. Cầu tài, cầu danh đều đắc lợi.
Mây tạnh ắt trời quang, nhờ đó trăng soi sáng khắp trần gian. Đấy là triệu chứng của công việc kinh doanh đều được toại ý, do đó khi xuất hành rất nên đi xa, bởi vì tài lợi sẽ được dồi dào, phong phú thu vào nhiều dịp như nước.
Ngoài ra trong gia đình còn vượng cả nhân khẩu tức là sanh con đẻ cái đầy đàn, người ăn kẻ ở, kẻ hầu người hạ đông đủ rộn rịp.
Tóm lại khi họa đã đi rồi thì phúc tất đến, không có gì phải lo nghĩ. Quẻ này chính là cái tượng chứng tỏ điềm trước khó sau để cho Người xin được.
Theo quẻ cho hay, thời vận của bạn hiện nay, đã như mây tan trăng sáng giữa trời, đường thông nước xuôi, vận trình ngàn dặm mau như gió bay. Nghĩa là thời vận của người đã hanh thông, đắc thời lên hương rồi chẳng còn trở ngại gì nữa.
Vậy, những sự việc cầu mưu lâu nay của bạn, từ nay sẽ lần lần đắc ý toại nguyện, hãy mau tiến tới đi. Đừng chần chừ mất dịp may.
Quẻ dạy: Mã đáo thành công, buồn xui chèo thuận, đời sắp lên hương. Cầu tài, cầu danh sự sự đắc quả. Đánh số thật tốt.

Con số linh ứng: 9, 19, 29, 39, 90, 99.