KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 76 - TRẠCH THIÊN QUẢI ĐỘNG HÀO TỨ
1. Quẻ Trạch Thiên Quải trong Kinh Dịch
Trạch Thiên Quải: Quyết dã. Dứt khoát. Dứt hết, biên cương, ranh giới, thành phần, thành khoảnh, quyết định, quyết nghị, cổ phần, thôi, khai lề lối. Ích chi cực tắc quyết chi tượng: lợi đã cùng ắt thôi.
Tăng lên đến cùng cực thì tới lúc tràn đầy, nứt vỡ nên sau quẻ Ích tới quẻ Quải. Quải có nghĩa là nứt vỡ, lại có nghĩa là quyết liệt.
Quẻ Quải có âm hào gần tàn lực, hống hách đè nén quần dương nên phải trừ bỏ nó, diệt trừ tiểu nhân. Tuy đạo tiểu nhân đã đến lúc suy tàn nhưng diệt trừ không phải dễ, đôi bên có thể bị tổn hại. Phải dùng sức cương của Càn và khoan dung của Đoài thì sẽ thắng được nó.
Hình ảnh quẻ Trạch Thiên Quải
Thoán từ: Quyết, dương vu vương đình, phu hiệu hữu lệ. Cáo tự ấp, bất lợi tức nhung, lợi hữu du vãng.
Quyết liệt: phải tuyên cáo tội ác của nó ở sân vua, lấy lòng chí thành mà phát hiệu lệnh. Có điều như sợ đấy, phải tự răn phe mình đã, đừng chuyên dùng võ lực, được như vậy thì sự nghiệp của mình càng tiến tới, có lợi.
Tượng quẻ: Ngoại quái Đoài, nội quái Càn tức là nước lên tận trời cao. Tổng thể năm hào dương quyết trừ bỏ một hào âm trên cùng.
Chằm (Đoài) ở trên, trời (Càn) ở dưới, là nước chằm dân lên ngập trời, tất nhiên các đê ngăn nước phải nứt vỡ khắp nơi.
Lại thêm 5 hào dương tiến lên, quyết tâm trừ một hào âm ở trên cùng. Vì hai lẽ đó mà quẻ này đặt tên là Quải.
Quẻ này thuộc về tháng 3, âm sắp tiêu hết, suy đến cực rồi. Tuy nhiên vẫn phải đề phòng, phải tuyên bố tội ác của tội nhân trước công chúng, rồi lấy lòng chí thành để ban lệnh.
Mặc dầu vậy, vẫn có thể gặp nguy được (cổ nhân thật dè dặt! ) cho nên phải răn phe mình đoàn kết, hành động đàng hoàng, mà đừng nên chuyên dùng võ lực, vì ngoại quái là Đoài có nghĩa là hoà thuận, vui vẻ. Bốn chữ "lợi hữu du vãng" có sách giảng là "cứ như vậy – tức không dùng võ lực – mà tiến tới thì có lợi?
Thoán truyện giảng là: cứ tiến tới, đến khi trừ xong hào âm, chỉ còn toàn quân tử, thì mới là hoàn thành (cương trưởng nãi chung dã).
Đại tượng truyện khuyên nên ban phát lợi lộc cho dân, cũng do cái ý của ngoại quái là đoài: vui vẻ, thuận hoà.
2. Quẻ Trạch Thiên Quải động hào tứ theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
難難難
忽然平地起波瀾
易易易
談笑尋常終有望.
Dịch âm:
Nan nan nan
Hốt nhiên bình địa khởi ba lan
Dị dị dị
Đàm tiếu tầm thường chung hữu vọng.
Dịch nghĩa:
Khó khó khó
Bỗng nhiên đất dậy sóng
Dễ dễ dễ
Cười nói bình thường không làm cũng thành.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Đồn vô phu, kỳ hành thứ thả. Khiên dương hối vong, văn ngôn bất tín." (Mông ốm teo, đi đứng khập khiễng. Dắt dê đến hiến tế thì có thể tránh được họa. Nhưng hắn không tin.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ nay là hiện tượng trước khó, sau dễ, trước khổ cực sau hanh thông. Những mưu cầu của bạn nên để tự nhiên, đừng quá cưỡng cầu, khi thời vận đến thì tự nó sẽ thuận lợi. Cầu tài, cầu danh tuy còn khó, nhưng vẫn có hy vọng.
Quẻ này cho biết hoàn cảnh hiện tại họa hoạn liên miên, khiến người ta buồn nản, chán ngán đến chết được. Nhưng ai có ngờ được chuyện cũng thông nay tốt may xấu, hoặc nay xui may hên. Thực tế, tối quá thì sẽ sáng, chuyện Tái ông mất ngựa, càng giúp ta hôm nay tai họa đấy nhưng chính lại từ cái họa ấy mà được phúc. Ví khi thời vận đã tới thì thế nào cũng thành mà lợi cũng tới.
Đấy thật là quẻ đại cát đại lợi, là tượng trước khó sau dễ, trước khổ cực sau hạnh thông, đáng mừng chứ không phải đáng lo.
Ý quẻ nói rằng: Tất cả việc cầu xin của người khi vận thời chưa đến dù cố gắng và tìm đủ mọi cách vẫn không đáp ứng được ý nguyện. Ngược lại khi thời đến vận thông, dù nói chơi cũng xong công việc.
Vậy, những việc cầu xin của người nên để tự nhiên mà đừng quá cưỡng cầu, tất cả thời vận của người đời là Trời đã định sẵn, chớ không phải sức người cô đơn mà có thể cưỡng cầu được. Và người chỉ có cách là "tận nhân lực mà tùy thiên định".
Quẻ dạy: Chờ thời là hay. Cưỡng cầu chẳng ích gì. Sắp đến cái may rồi. Chờ, cầu tài, cầu danh tuy còn lâu, nhưng vẫn có đường. Đánh số hạp chút ít.
Con số linh ứng: 6, 7, 60, 67, 70, 76, 77.