KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 79 - TRẠCH PHONG ĐẠI QUÁ ĐỘNG HÀO NHẤT

1. Quẻ Trạch Phong Đại Quá trong Kinh Dịch

Trạch Phong Đại Quá: Họa dã. Cả quá. Cả quá ắt tai họa, quá mực thường, quá nhiều, giàu cương nghị ở trong. Nộn thảo kinh sương chi tượng: tượng cỏ non bị sương tuyết.
Tự quái truyện giảng rất mù mờ, “Di là nuôi, không nuôi thì không thể động (bất dưỡng tức bất động) (?) cho nên sau quẻ Di đến quẻ Đại quá (lớn quá) “Phan Bội Châu giảng: “Có nuôi rồi sau mới có việc lớn quá”
Chúng tôi nghĩ có thể giảng: Có bồi dưỡng tài đức thì sau mới làm được việc lớn quá (rất lớn), phi thường.
Chữ “đại quá” có hai cách hiểu: Phần dương trong quẻ tới 4 (phần âm chỉ có hai) mà dương có nghĩa là lớn (âm là nhỏ); vậy đại quá có nghĩa là phần dương nhiều quá; - nghĩa nữa là (đạo đức công nghiệp) lớn quá.

Quẻ Đại Quá có bốn hào dương bị vây hãm bởi hai hào âm thể hiện ý nghĩa dù có bề thế, to lớn nhưng cái gốc và cái ngọn bị yếu. Quẻ khiêm nhường, hòa duyệt có âm nhu, thiên về mềm mỏng nên đôi khi thiếu nghị lực, dễ bị tiểu nhân gây rối loạn.

Hình ảnh quẻ Trạch Phong Đại Quá

Thoán từ: Đại quá, đống nạo, lợi hữu du vãng, hanh.

(Phần dương ) nhiều quá (phần âm ít quá) như cái cột yếu, cong xuống (chống không nổi). Trên di thì lợi, được hanh thông.

Tượng quẻ: Ngoại quái Đoài, nội quái Tốn có bốn hào Dương, hai hào Âm ở trên cùng và dưới cùng của quẻ. Tượng quẻ được ví giống như cây cột đầu đuôi yếu nên dễ bị đổ. Tuy nhiên quẻ này quân vẫn thịnh còn tiểu nhân yếu.

Nhìn hình của quẻ, bốn hào dương ở giữa, 2 hào âm hai đầu, như cây cột, khúc giữa lớn quá, ngọn và chân nhỏ quá, chống không nổi, phải cong đi.
Tuy vậy, hai hào dương 2 và 5 đều đắc trung, thế là cương mà vẫn trung; lại thêm quẻ Tốn ở dưới có nghĩa là thuận, quẻ Đoài ở trên có nghĩa là hòa, vui, thế là hòa thuận, vui vẻ làm việc, cho nên bảo là tiến đi (hành động) thì được hanh thông.
Đại tượng truyện bàn rộng: Đoài là chằm ở trên, Tốn là cây ở dưới, có nghĩa nước lớn quá, ngập cây. Người quân tử trong quẻ này phải có đức độ, hành vi hơn người, cứ việc gì hợp đạo thì làm, dù một mình đứng riêng, trái với thiên hạ, cũng không sợ (độc lập bất cụ); nếu là việc không hợp đạo thì không thèm làm, dù phải trốn đời, cũng không buồn (độn thế vô muộn).

2. Quẻ Trạch Phong Đại Quá động hào nhất theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

事了物未了
人圓物未圓
要知端的信
日影上琅.

Dịch âm:

Sự liễu vật vị liễu
Nhân viên vật vị viên
Yếu tri đoan đích tín
Nhật ảnh thượng lang.

Dịch nghĩa:

Việc xong xuôi chuyện chưa rồi
Người tròn vật khuyết
Lôi thôi việc làm
Muốn hay tin tức rõ ràng
Mặt trời bóng chiếu hành lang trưa ngày.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tạ dụng bạch mao, vô cữu." (Lúc tế tự dùng cỏ mao trắng làm đệm lót. Hào này không có tai họa.)
Theo ý thơ của Khổng Minh nói, biết sửa sang đường lối và cố gắng tiến mạnh, thì tuy những mưu cầu của bạn đang lận đận khó khăn, chưa thể thành đạt ngay, nhưng một sớm một chiều cũng sẽ có tin mừng đến. Cầu tài cầu việc hiện đều chưa thuận.
Đường xá đã gian nan nguy hiểm, tiền lương lại hết sạch. Sự nghiệp quả khó mà thành tựu. Tuy nhiên, cái nhân đẹp đã phát sinh phân nửa. Ít ra là vào khoảng tháng tám. Nếu ta biết sửa sang đường lối biết cố gắng tiến mạnh, thì một sớm một chiều tin mừng cũng sẽ đến với ta.
Những việc cầu xin của bạn vẫn còn lận đận khó khăn, chưa thể thành đạt tức khắc, và còn phải chờ đợi một thời gian nữa.
Bởi theo quẻ cho hay: Việc xong mà chuyện chưa xong, người yên mà chuyện chưa yên. Muốn biết nguyên do hay tin tức của nó phải chờ mặt trời lên cao chiếu tới lang cang.
Nghĩa là nói công việc cầu xin chưa được trọn vẹn tốt đẹp, cần nên chờ đợi một thời gian nữa mới được như câu thứ tư đã ẩn tường vậy.
Quẻ dạy: Chờ lúc nửa năm hay nửa tháng mới có kết quả. Ẫn nhẫn chờ đợi mới hay. Muốn xong gấp cũng chẳng được nào. Cầu tài cầu mưu chưa tiện. Đánh số hạp chút ít.

Con số linh ứng: 7, 9, 70, 77, 79, 90, 99.