KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 69 - TRẠCH ĐỊA TỤY ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Trạch Địa Tụy trong Kinh Dịch

Trạch Địa Tụy: Tụ dã. Trưng tập. Nhóm họp, biểu tình, dồn đống, quần tụ nhau lại, kéo đến, kéo thành bầy. Long vân tế hội chi tượng: tượng rồng mây giao hội.
Gặp nhau rồi thì thành bầy, thành bầy thi phải nhóm họp , cho nên sau quẻ Cấu tới quẻ Tụy (nhóm họp)

Quẻ Tụy có sự thống nhất của hào Cửu Ngũ - là hào dương chứa đầy đủ cương cường, ân uy, đại độ, khoan dung quy tụ được người dưới theo mình. Tuy nhiên hào Cửu Tứ bên cạnh chia sẻ ảnh hưởng. Muốn thành công phải quang minh chính đại, tự cường và đề cao cảnh giác đối phó với mọi biến cố bất thường.

Hình ảnh quẻ Trạch Địa Tụy

Thoán từ: Tuy hanh, vương cách hữu miếu

Nhóm họp: hanh thông. Vua đến nhà Thái miếu, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi, hanh thông, giữ vững đạo chính thì lợi. Lễ vật (để cúng) lớn (hậu hĩ) thì tốt, tiến đi (sự nghiệp) được lâu dài.

Tượng quẻ: Ngoại quái Đoài, nội quái Khôn có nghĩa là nước đầm tụ trên mặt của đất. Quẻ gợi sự tập hợp quần chúng.

Chằm (Đoài ở trên đất (Khôn), là nước có chỗ nhóm, tụ, cho nên gọi là quẻ Tụy.
Nội quái là Khôn có tính thuận, ngoại quái là Đoài có nghĩa vui vẻ, hoà thuận; mà hào 5 ở trên được hào 2 ở dưới ứng trợ cho, tất nhóm họp được đông người, cho nên hanh thông, tốt.
Nhóm họp cần long trọng và tỏ lòng chí thành, có thần linh chứng giám, cho nên vua tới nhà Thái miếu để dâng lễ, thề.
Người đứng ra nhóm họp một đảng phải là bậc đại nhân có tài, đức, được người tin, trọng thì mới tốt; người đó phải giữ vững đạo chính, đường lối chính đáng thì mới tốt (lợi trinh).
Nhóm họp ở thái miếu thì tế lễ phải long trọng, những con vật để cúng phải lớn, thì mới tốt. Nhóm họp để cùng nhau mưu tính mọi việc cho sự nghiệp được lâu dài (lợi hữu du vãng).
Đại Tượng truyện khuyên khi nhóp họp nên có tinh thần hoà thuận vui vẻ như quẻ Khôn, quẻ Đoài, cất khí giới đi để ngừa những sự biến bất ngờ xảy ra.

2. Quẻ Trạch Địa Tụy động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

不足不足
難伸心曲
野塘雨過月如鉤
夢斷邯鄲眉黛愁.

Dịch âm:

Bất túc bất túc
Nạn thân tâm khúc
Dã đường vũ quá nguyệt như câu
Mộng đoạn Hàm Đan mi đại sầu.

Dịch nghĩa:

Vì cho chẳng đủ
Nên cứ thiếu hoài
Ao vắng mưa qua trăng khuyết hiện
Mộng dứt Hàm Đan
Lông mày vẽ sầu.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tụy như, ta như. Vô du vãng, vô cữu, tiểu lận." (Ôi, mệt nhọc thay! Hào này không lợi đi xa. Không có tai họa, nhưng có âu lo nhỏ.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, Quẻ này báo cho biết có chuyện buồn lo sắp tới. Mọi thứ đều không đủ, nên chí nguyện của bạn khó mà đạt thành, mưu cầu của bạn rất gian nan. Cầu tài, câu việc đều xa.
Quẻ này báo cho ta biết có chuyện trộm cướp cần phải đề phòng, có cái lo chết chóc tang thương, có cái buồn vợ chồng chia ly, có cáo uất thân thích hiềm khích phản bội, có cái nguy gia cơ suy bại, có cái họa gia đình hiu quạnh.Hãy mau mau tu đức để bổ khuyết lỗi lầm và mong được thần linh ủng hộ.
Quẻ thơ tả cảnh của người cầu xin rằng: Tất cả thiếu thốn mà không đầy đủ, nên cái chí nguyện của người khó mà toại lòng, và như cảnh người nằm mộng nữa chừng tỉnh dậy, và sau trận mưa trăng bị mờ.
Vậy, ý quẻ cho rằng: Sự cầu xin của người rất gian nan. Muốn thành đạt theo ý muốn, phải cố công siêu quần xuất chúng thì mới được.
Quẻ dạy: Thủ phận, đặt cao vọng, tính toán chỉ toàn gặp cảnh gian nan "Tri túc thường túc, chung thân bất nhục" cứ an phận, tự cho là đủ, thì ắt đủ, thì cuộc đời khỏi cảnh long đong, khổ nhục. Cầu tài cầu mưu còn lâu. Đánh số dở.

Con số linh ứng: 6, 9, 60, 66, 69, 90, 96, 99.