KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 68 - TRẠCH ĐỊA TỤY ĐỘNG HÀO NHỊ
1. Quẻ Trạch Địa Tụy trong Kinh Dịch
Trạch Địa Tụy: Tụ dã. Trưng tập. Nhóm họp, biểu tình, dồn đống, quần tụ nhau lại, kéo đến, kéo thành bầy. Long vân tế hội chi tượng: tượng rồng mây giao hội.
Gặp nhau rồi thì thành bầy, thành bầy thi phải nhóm họp , cho nên sau quẻ Cấu tới quẻ Tụy (nhóm họp)
Quẻ Tụy có sự thống nhất của hào Cửu Ngũ - là hào dương chứa đầy đủ cương cường, ân uy, đại độ, khoan dung quy tụ được người dưới theo mình. Tuy nhiên hào Cửu Tứ bên cạnh chia sẻ ảnh hưởng. Muốn thành công phải quang minh chính đại, tự cường và đề cao cảnh giác đối phó với mọi biến cố bất thường.
Hình ảnh quẻ Trạch Địa Tụy
Thoán từ: Tuy hanh, vương cách hữu miếu
Nhóm họp: hanh thông. Vua đến nhà Thái miếu, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi, hanh thông, giữ vững đạo chính thì lợi. Lễ vật (để cúng) lớn (hậu hĩ) thì tốt, tiến đi (sự nghiệp) được lâu dài.
Tượng quẻ: Ngoại quái Đoài, nội quái Khôn có nghĩa là nước đầm tụ trên mặt của đất. Quẻ gợi sự tập hợp quần chúng.
Chằm (Đoài ở trên đất (Khôn), là nước có chỗ nhóm, tụ, cho nên gọi là quẻ Tụy.
Nội quái là Khôn có tính thuận, ngoại quái là Đoài có nghĩa vui vẻ, hoà thuận; mà hào 5 ở trên được hào 2 ở dưới ứng trợ cho, tất nhóm họp được đông người, cho nên hanh thông, tốt.
Nhóm họp cần long trọng và tỏ lòng chí thành, có thần linh chứng giám, cho nên vua tới nhà Thái miếu để dâng lễ, thề.
Người đứng ra nhóm họp một đảng phải là bậc đại nhân có tài, đức, được người tin, trọng thì mới tốt; người đó phải giữ vững đạo chính, đường lối chính đáng thì mới tốt (lợi trinh).
Nhóm họp ở thái miếu thì tế lễ phải long trọng, những con vật để cúng phải lớn, thì mới tốt. Nhóm họp để cùng nhau mưu tính mọi việc cho sự nghiệp được lâu dài (lợi hữu du vãng).
Đại Tượng truyện khuyên khi nhóp họp nên có tinh thần hoà thuận vui vẻ như quẻ Khôn, quẻ Đoài, cất khí giới đi để ngừa những sự biến bất ngờ xảy ra.
2. Quẻ Trạch Địa Tụy động hào nhị theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
舟離古渡月離雲
人出潼關好問津
且向前行去求住
何須疑慮兩三心.
Dịch âm:
Châu ly cổ độ nguyệt ly vân
Nhân xuất đồng quan hảo vấn tân
Thả hướng tiền hành khứ cầu trụ
Hà tu nghi lự lưỡng tam tâm.
Dịch nghĩa:
Thuyền lìa bến cũ
Trăng ra khỏi mây
Qua khỏi sông hẹp
Bờ mới đang chờ
Chẳng nên do dự
Tiến thẳng lên đường.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Dẫn cát, vô cữu. Phu, nãi lợi dụng thược." (Dẫn đi thì cát lợi, không có tai họa. Có điềm ứng là cử hành lễ tế Xuân là có lợi.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về rat khỏi cửa la có lợi. Người được quẻ này rất nên tiến tới thì mới có cơ may gặp gỡ, chớ nên băn khoăn, lưỡng lựn àm lỡ mất tiền trình. Những mưu cầu của bán ẽ được toại ý trong nay mai. Cầu tài, cầu việc đều sẽ đạt thành.
Quẻ này chủ ra khỏi cửa là có công, Người xin được quẻ này rất nên đập bàn dứt áo đứng lên. Tiến lên thì mới có cơ duyên gặp gỡ, chớ nên băn khoăn đầu cuối hai bên, do dự trong quyết định tiến thoái, khiến lầm lỡ tiến trình. Ý nói hiện nay thuyền xa bến, trăng xa mây rồi trời quang đãng đó, người ra khỏi đông quan rất dễ tìm một tương lai tốt đẹp và cứ đi tới đừng nghi ngờ lo âu và nản lòng.
Nghĩa là thời vận của người hiện nay tiền đồ sáng lạng như trăng, như thuyền rời bến vận tình ngàn dặm, vậy người hãy tiến tới đi thời vận đã hanh thông rồi.
Vậy những sự cầu xin của bạn sẽ được toại trong mai sau, nhưng phải kiên trì mà đừng nghi hoặc gian nan thì ắt đạt sở cầu.
Quẻ dạy: Cứ tiến tới, sự ắt thành. Thời đến rồi, chớ lo, sự sự sẽ hanh thông, lo gì. Cầu tài, cầu mưu sắt đạt. Đánh số gặp may.
Con số linh ứng: 6, 8, 60, 66, 68, 80, 86, 88.