KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 71 - TRẠCH ĐỊA TỤY ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Trạch Địa Tụy trong Kinh Dịch

Trạch Địa Tụy: Tụ dã. Trưng tập. Nhóm họp, biểu tình, dồn đống, quần tụ nhau lại, kéo đến, kéo thành bầy. Long vân tế hội chi tượng: tượng rồng mây giao hội.
Gặp nhau rồi thì thành bầy, thành bầy thi phải nhóm họp , cho nên sau quẻ Cấu tới quẻ Tụy (nhóm họp)

Quẻ Tụy có sự thống nhất của hào Cửu Ngũ - là hào dương chứa đầy đủ cương cường, ân uy, đại độ, khoan dung quy tụ được người dưới theo mình. Tuy nhiên hào Cửu Tứ bên cạnh chia sẻ ảnh hưởng. Muốn thành công phải quang minh chính đại, tự cường và đề cao cảnh giác đối phó với mọi biến cố bất thường.

Hình ảnh quẻ Trạch Địa Tụy

Thoán từ: Tuy hanh, vương cách hữu miếu

Nhóm họp: hanh thông. Vua đến nhà Thái miếu, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi, hanh thông, giữ vững đạo chính thì lợi. Lễ vật (để cúng) lớn (hậu hĩ) thì tốt, tiến đi (sự nghiệp) được lâu dài.

Tượng quẻ: Ngoại quái Đoài, nội quái Khôn có nghĩa là nước đầm tụ trên mặt của đất. Quẻ gợi sự tập hợp quần chúng.

Chằm (Đoài ở trên đất (Khôn), là nước có chỗ nhóm, tụ, cho nên gọi là quẻ Tụy.
Nội quái là Khôn có tính thuận, ngoại quái là Đoài có nghĩa vui vẻ, hoà thuận; mà hào 5 ở trên được hào 2 ở dưới ứng trợ cho, tất nhóm họp được đông người, cho nên hanh thông, tốt.
Nhóm họp cần long trọng và tỏ lòng chí thành, có thần linh chứng giám, cho nên vua tới nhà Thái miếu để dâng lễ, thề.
Người đứng ra nhóm họp một đảng phải là bậc đại nhân có tài, đức, được người tin, trọng thì mới tốt; người đó phải giữ vững đạo chính, đường lối chính đáng thì mới tốt (lợi trinh).
Nhóm họp ở thái miếu thì tế lễ phải long trọng, những con vật để cúng phải lớn, thì mới tốt. Nhóm họp để cùng nhau mưu tính mọi việc cho sự nghiệp được lâu dài (lợi hữu du vãng).
Đại Tượng truyện khuyên khi nhóp họp nên có tinh thần hoà thuận vui vẻ như quẻ Khôn, quẻ Đoài, cất khí giới đi để ngừa những sự biến bất ngờ xảy ra.

2. Quẻ Trạch Địa Tụy động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

湖海悠悠
孤舟浪頭
來人未渡
殘照山樓.

Dịch âm:

Hồ hải du du
Cô châu lãng đầu
Lai nhân vị độ
Tàn chiếu sơn lâu.

Dịch nghĩa:

Biển nước mênh mông
Sóng trước đầu thuyền
Người chưa qua sông
Ánh sáng le lói
Chiếu lầu trên núi.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tụy hữu vị. Vô cữu. Phỉ phu. Nguyên vĩnh trinh, hối vong." (Ở địa vị của mình nên cúc cung tận tụy. Hào này không có tai họa. Không cần khôi phục việc cũ. Hết khốn đốn trong một thời gian dài.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về trôi nổi vô định. Hiện còn chưa có ai giúp đỡ, người được quẻ này nên dè dặt là hơn. Những mưu cầu của bạn, hãy nên xét lại, phải thận trọng để tránh điều không hay xảy ra. Cầu tài, cầu việc đều bất lợi.
Quẻ này chủ sự trôi nổi vô định, chẳng khác chi là sóng dập bèo trôi, gió lùa tơ mảnh. Hiện tại ta còn chưa có ai viện trợ giúp đỡ, chỉ nên ôm cột đợi thỏ, chớ có liều lĩnh nhảy đại xuống vực sâu để bắt cá. Người xin được quẻ này rất nên an phận dè dặt là hơn.
Ý quẻ nói: Thuyền đang ngụp lặn trong ba đào, người muốn sang sông mà không đò đưa. Còn mặt trời lặn núi tây, tuy cảnh đẹp đẽ, nhưng đã tới chiều tối rồi. Nghĩa là vận thời của người, lần lần bị mất những may mắn, dù còn tốt nhưng như cảnh chiều phản chiếu của mặt trời.
Vậy những cầu xin của người, hãy nên xét lại, thận trọng tất cả việc đang làm và tính làm, để tránh điều không may xảy cho bạn, vì vận trình không được may mắn lắm.
Quẻ dạy: Nếu đang gặp nhiều ngăn trở, thuyền nan đang giữa dòng mà còn gặp cảnh ba đào nữa, thì nguy hiểm nào bằng. Thủ phận, chờ thời là hay. Cầu tài, cầu mưu bất lợi. Chơi đen đỏ còn dở nữa.

Con số linh ứng: 7, 11, 17, 70, 71, 77.