KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 241 - THỦY VI KHẢM ĐỘNG HÀO NHẤT

1. Quẻ Thủy Vi Khảm trong Kinh Dịch

Thủy Vi Khảm: Hãm dã. Hãm hiểm. Hãm vào ở trong, xuyên sâu vào trong, đóng cửa lại, gập ghềnh, trắc trở, bắt buộc, kìm hãm, thắng. Khổ tận cam lai chi tượng: tượng hết khổ mới đến sướng.
Lẽ trời không thể quá (cực đoan) được mãi, hễ quá thì sẽ phải sụp vào chỗ hiểm. Vậy sau quẻ Đại quá, tới quẻ Thuần khảm. Khảm có nghĩa là sụp, là hiểm.

Quẻ Khảm báo hiệu những nguy hiểm sắp đến trùng trùng cả ngoài và trong. Ở trong tình thế nguy khốn tưởng chừng vô phương cứu chữa, chỉ cần phấn chấn tinh thần, thích ứng với những khó khăn sẽ mau chóng thành công.

Hình ảnh quẻ Thủy Vi Khảm

Thoán từ: Tập khảm hữu phu duy tâm, hanh, hành hữu thượng.

Hai lớp khảm (hai lớp hiểm), có đức tin, chỉ trong lòng là hanh thông, tiến đi (hành động) thì được trọng mà có công.

Tượng quẻ: Cả trên và dưới quẻ đều là Khảm. Mỗi quái hào Dương đều bị hào Âm vây xung quanh. Nhưng hào Dương chính giữa còn thể hiện ý nghĩa lòng tín trực. Do vậy dù trong những hung hiểm mà vẫn luôn giữ được tín thực và từ đó thoát khỏi hiểm.

Tập Khảm có nghĩa là trùng khảm, hai lần Khảm. Nhìn hình quẻ Khảm ta thấy một hào dương bị hãm vào giữa hai hào âm, cho nên Khảm có nghĩa là hãm, là hiểm.
Ta lại thấy ở giữa đặc (nét liền), ngoài rỗng (nét đứt), trái với quẻ Ly ☲ giữa rỗng trên dưới đặc, như cái miệng lò; chỗ rỗng đó là chỗ không khí vô để đốt cháy than, củi, cho nên Ly là lửa. Khảm trái với Ly, chỗ nào trống thì nước chảy vào; Ly là lửa thì Khảm là nước. Nguy hiểm không gì bằng nước sâu, không cẩn thận thì sụp xuống, chết đuối, nên bảo nước là hiểm.
Xét theo ý nghĩa thì hào dương ở giữa, dương là thực, thành tín, vì vậy bảo là Khảm có đức tin, chí thành (hữu phu) ở trong lòng, nhờ vậy mà hanh thông. Gặp thời hiểm , có lòng chí thành thì không bị tai nạn, hành động thì được trọng mà còn có công nữa.
Thoán truyện giảng thêm: Nước chảy hoài mà không bao giờ ứ lại (lưu nhi bất doanh) chỗ hiểm trở nào cũng tới, cho nên bảo là có đức tin.
Lòng được hanh thông vì hai hào giữa (hào 2 và 5), đã cương mà đắc trung.
Trời có tượng hiểm (vì không lên trời được) ; đất có tượng hiểm, tức núi sông. Các bậc vương công theo tượng trời và đất mà đặt ra những cái hiểm (tức đào hào, xây thành, đạt ra hình pháp) để giữ đất đai và sự trật tự trong xã hội. Cái công dụng của hiểm nếu hợp thời thì cực lớn.
Đại tượng truyện khuyên nên theo cái đức chảy hoài không ngừng của nước mà giữ bền đức hạnh mà tu tĩnh không ngày nào quên.

2. Quẻ Thủy Vi Khảm động hào nhất theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

一念上天堂
一念入地獄
地獄天堂
便分榮辱
自立念頭要真
不可隨人碌碌.

Dịch âm:

Nhất niệm thướng thiên đường
Nhất niệm nhập địa ngục
Địa ngục thiên đường
Tiện phân vinh nhục
Tự lập niệm đầu yếu chân
Bất khả tuỳ nhân lục lục.

Dịch nghĩa:

Một niệm lên thiên đường
Một niệm xuống địa ngục
Địa ngục thiên đường
Rõ phân vinh nhục
Quan trọng khi khởi niệm là phải chân chính cao thượng
Đừng bắt chước theo hạng phàm phu tục tử.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tập khảm, nhập vu khảm hạm. Hung" (Tập khảm, tức bị rơi xuống hầm hố. Hào này hung hiểm.)
Theo ý thơ của Khổng minh, quẻ này chủ về tự mình phải làm chủ lấy mình, chwos có nên nghe người, đến nỗi vinh nhục không phân biệt được, đi lầm đường mà rơi vào cạm bẫy. Một ý niệm sai lầm thì thân ta lập tức rơi xuống hố sâu. Vì vậy người được quẻ này phải có phương châm sống cho đời mình để tránh lỗi lầm, những mưu cầu của bạn mới mong có kết quả tốt đẹp. Cầu danh, cầu lợi tùy theo tâm niệm và hành động của bạn.
Quẻ này dạy ta nhất thiết tự mình phải làm chủ lấy mình, chớ nên nghe người dèm pha, để đến nổi vinh nhục không phân biệt được, rồi cho là bên nào cũng được cả. Một ý nghĩ đã sai thì thân ta rớt xuống hố sâu nhơ nhuốc. Bởi thế Người xin được quẻ này nên phải lập lấy phương châm cho đời mình để tránh lỗi lầm.
Ý quẻ nói hai đàng: Thiên đàng địa ngục rất rõ ràng, bạn khi chọn lựa phải lý trí và khôn khéo chớ nên tùy ý theo người làm xấu thì nguy lắm nghĩa là nói sự phải trái rất rõ ràng nên phải làm những điều chính đáng, mà đừng theo tà vậy, thì việc cầu mưu của người mới mong có kết quả tốt đẹp và ngược lại.
Đạo đức làm đầu, chớ theo đường tà vậy thì nguy lắm. Cầu danh lợi tùy tâm và hành động của ta, đánh số tốt chút ít.

Con số linh ứng: 1, 2, 4, 14, 21, 24, 41, 42.