KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 245 - THỦY VI KHẢM ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Thủy Vi Khảm trong Kinh Dịch

Thủy Vi Khảm: Hãm dã. Hãm hiểm. Hãm vào ở trong, xuyên sâu vào trong, đóng cửa lại, gập ghềnh, trắc trở, bắt buộc, kìm hãm, thắng. Khổ tận cam lai chi tượng: tượng hết khổ mới đến sướng.
Lẽ trời không thể quá (cực đoan) được mãi, hễ quá thì sẽ phải sụp vào chỗ hiểm. Vậy sau quẻ Đại quá, tới quẻ Thuần khảm. Khảm có nghĩa là sụp, là hiểm.

Quẻ Khảm báo hiệu những nguy hiểm sắp đến trùng trùng cả ngoài và trong. Ở trong tình thế nguy khốn tưởng chừng vô phương cứu chữa, chỉ cần phấn chấn tinh thần, thích ứng với những khó khăn sẽ mau chóng thành công.

Hình ảnh quẻ Thủy Vi Khảm

Thoán từ: Tập khảm hữu phu duy tâm, hanh, hành hữu thượng.

Hai lớp khảm (hai lớp hiểm), có đức tin, chỉ trong lòng là hanh thông, tiến đi (hành động) thì được trọng mà có công.

Tượng quẻ: Cả trên và dưới quẻ đều là Khảm. Mỗi quái hào Dương đều bị hào Âm vây xung quanh. Nhưng hào Dương chính giữa còn thể hiện ý nghĩa lòng tín trực. Do vậy dù trong những hung hiểm mà vẫn luôn giữ được tín thực và từ đó thoát khỏi hiểm.

Tập Khảm có nghĩa là trùng khảm, hai lần Khảm. Nhìn hình quẻ Khảm ta thấy một hào dương bị hãm vào giữa hai hào âm, cho nên Khảm có nghĩa là hãm, là hiểm.
Ta lại thấy ở giữa đặc (nét liền), ngoài rỗng (nét đứt), trái với quẻ Ly ☲ giữa rỗng trên dưới đặc, như cái miệng lò; chỗ rỗng đó là chỗ không khí vô để đốt cháy than, củi, cho nên Ly là lửa. Khảm trái với Ly, chỗ nào trống thì nước chảy vào; Ly là lửa thì Khảm là nước. Nguy hiểm không gì bằng nước sâu, không cẩn thận thì sụp xuống, chết đuối, nên bảo nước là hiểm.
Xét theo ý nghĩa thì hào dương ở giữa, dương là thực, thành tín, vì vậy bảo là Khảm có đức tin, chí thành (hữu phu) ở trong lòng, nhờ vậy mà hanh thông. Gặp thời hiểm , có lòng chí thành thì không bị tai nạn, hành động thì được trọng mà còn có công nữa.
Thoán truyện giảng thêm: Nước chảy hoài mà không bao giờ ứ lại (lưu nhi bất doanh) chỗ hiểm trở nào cũng tới, cho nên bảo là có đức tin.
Lòng được hanh thông vì hai hào giữa (hào 2 và 5), đã cương mà đắc trung.
Trời có tượng hiểm (vì không lên trời được) ; đất có tượng hiểm, tức núi sông. Các bậc vương công theo tượng trời và đất mà đặt ra những cái hiểm (tức đào hào, xây thành, đạt ra hình pháp) để giữ đất đai và sự trật tự trong xã hội. Cái công dụng của hiểm nếu hợp thời thì cực lớn.
Đại tượng truyện khuyên nên theo cái đức chảy hoài không ngừng của nước mà giữ bền đức hạnh mà tu tĩnh không ngày nào quên.

2. Quẻ Thủy Vi Khảm động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

男兒若得封侯印
不負人間走一遭
功成身退煙霞嘯傲
脫卻紫羅袍
方是男兒道.

Dịch âm:

Nam nhi nhược đắc phong hầu ấn
Bất phụ nhân gian tẩu nhất tao
Công thành thân thoái yên hà tiếu ngạo
Thoát khước tử la bào
Phương thị nam nhi đạo.

Dịch nghĩa:

Nam nhi đạt được ấn phong hầu, chẳng bỏ công lao khổ bấy lâu, công thành thân thoái vui thú yên hà (khói và ráng mây), cởi bỏ áo bào tía, mới thiệt đạo
Nam nhi.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Khảm bất doanh, chí kỳ bình. Vô cữu. (Hầm hố không đầy, họa hại đã được dẹp yên. Hào này không có tai họa.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về trên con đường danh lợi, bạn cần nên làm việc hết sức mình. Nhưng phải biết đủ mà dừng, sớm đi nên sớm về để hưởng cái thú thanh nhàn ở cõi nhân gian. Người được quẻ này lúc đắc thời chớ cậy tài ba, phải biết giữ mình mà rút lui cho gấp rút, thì không có tai họa gì. Nhưng khi công việc đã êm thấm rồi, bạn phải giữ gìn cẩn thận và chớ có quá cao vọng. Công danh, cầu tài đều được.
Quẻ này chủ tiến trình xa rộng. Cần nên xuất tận khả để hành động. Nhưng sớm ra lại nên sớm về. Về để u du nơi lâm tuyên, hưởng hết cái phúc thanh nhàn của cõi nhân gian. Người xin được quẻ này có cái tượng: kẻ hiệu sinh đáng sợ (hậu sinh khả úy). Tuy nhiên, lúc đắc thời chớ cậy thông minh tài ba, mà không theo đúng phương châm tiến nhanh mà lui gấp.
Việc cầu xin của bạn theo ý quẻ cho hay sẽ được tốt lành chẳng có gì đáng lo ngại. Nhưng công việc êm thắm rồi bạn phải nên giữ gìn và chớ lo yêu cầu quá cao. Vì quẻ có nói rõ: nếu ngày được ban phong rồi, tức là đã được trả công rồi hãy rút lui và đừng ham mê tục lụy nữa, đó là khuyên người phàm mưu việc gì chỉ cần đến mưu vừa phải thôi vậy.
Công thành, thâm thối là hay. Chớ đam mê chuyện vàng son, hoa mộng, mà hóa dở. Công danh tài lợi có. Đánh số hạp phần nào.

Con số linh ứng: 2, 4, 5, 24, 42, 45.