KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 256 - THỦY THIÊN NHU ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Thủy Thiên Nhu trong Kinh Dịch

Thủy Thiên Nhu: Thuận dã. Tương hội. Chờ đợi vì hiểm đằng trước, thuận theo, quây quần, tụ hội, vui hội, cứu xét, chầu về. Quân tử hoan hội chi tượng: quân tử vui vẻ hội họp, ăn uống chờ thời.
Quẻ trên là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy.
Nhưng Thoán Từ thì lại giải thích khác: Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi, và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi.

Nhu có nghĩa là chờ đợi. Cũng có thể hiểu Nhu theo 2 nghĩa: Một là nuôi dưỡng yến lạc. Hai là sự chờ đợi. Hai ý nghĩa này không mâu thuẫn mà bổ túc cho nhau. Hiểu là trước hiểm họa, phải chờ đợi thời cơ thuận tiện để bồi dưỡng thân thể, tinh thần để thắng nó.
Xét về tài quẻ, ngôi vua ở hào Năm, chủ là sự chờ đợi, đức cứng mạnh, trung chính, bên trong dầy đặc có đức tin. Khi có đức tin thì sáng láng, hanh thông, được trinh chính. Được chính thì lợi hoàn thành Đại nghiệp.

Hình ảnh quẻ Thủy Thiên Nhu

Thoán từ: Nhu, hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên.

Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công.

Tượng quẻ: Quẻ Nhu Khảm trên gặp Càn dưới, Càn toàn dương mạnh hơn Khảm, Khảm chỉ có 1 hào dương. Cho nên, mặc dù có nguy hiểm đang chờ đợi, nhưng quẻ này đủ sức thắng nó, miễn sao biết xử sự theo đúng theo Càn đạo, vừa cương cường lại vừa sáng suốt.

Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.
Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà thành công.
Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời, thế nào cũng mưa; cứ "ăn uống yến lạc" (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ.

2. Quẻ Thủy Thiên Nhu động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

東南北將來成故墟
燕薊地蒼生無存濟
若要大奮雄心
水源不知何處

Dịch âm:

Đông nam bắc tương lai thành cố khư
Yên kế địa thương sanh vô tồn tế
Nhược yếu đại phấn hùng tâm
Thuỷ nguyên bất tri hà xứ

Dịch nghĩa:

Ba phía đông
Nam
Bắc nay mai sẽ thành đống gò hoang
Đất có cỏ kế (dùng làm thuốc) nước Yên không còn sản sinh thuốc để cứu người
Nếu không ráng hết sức phấn đấu
Nguồn nước chẳng biết ở nơi nào.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Nhu vô huyết, xuất tự huyệt." (Lưu lại ở nơi cửa, ra khỏi nhà.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về đại nạn sắp xảy ra. Hai phương Đông, Nam đều không phải là chỗ yên thân. Người được quẻ này cần nên cấp tốc lo liệu, chớ có do dự chậm trễ mà nguy khốn. Việc mưu cầu của bạn muốn đạt thì phải chịu nhiều gian nan, vất vat, và cố gắng không ngừng mới mong thành tựu.
Quẻ này chủ đại nạn sắp đến, kiếp số khó tránh: 3 phương Đông, Nam, Bắc đều không phải là chỗ yên thân. Duy chỉ còn phương Tây là phương bình tỉnh yên ổn, tới đây còn mong là có làm được việc gì. Nhưng lại tiếc phải cái nơi đất khách quê người có định kế lâu dài được không. Người xin được quẻ này cần nên cấp tốc lo liệu chớ có do dự chậm trễ thì may ra mới đỡ được phần nào tai hại.
Theo ý quẻ cho biết việc cầu xin của bạn muốn thành đạt thực là khổ nhọc, vì hai câu sau nói: Muốn khởi hùng tâm cứu thế nạn, mà chẳng biết được nước sông ở đâu. Nghĩa là nước nguồn sống của vạn vật, không nước thì làm sao sống. Vậy việc cầu xin của bạn muốn thành đạt, thì phải chịu gian nan, cố gắng không ngừng thì mới có thể an ủi phần nào.
Muốn nên công, phải gắng sức. Công việc tính toán vô cùng khó. Hãy chờ thời là hơn, bôn ba tranh đấu chẳng có ích gì. Đánh số, không hạp.

Con số linh ứng: 2, 5, 6, 25, 26, 56, 62, 65.