KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 255 - THỦY THIÊN NHU ĐỘNG HÀO TAM
1. Quẻ Thủy Thiên Nhu trong Kinh Dịch
Thủy Thiên Nhu: Thuận dã. Tương hội. Chờ đợi vì hiểm đằng trước, thuận theo, quây quần, tụ hội, vui hội, cứu xét, chầu về. Quân tử hoan hội chi tượng: quân tử vui vẻ hội họp, ăn uống chờ thời.
Quẻ trên là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy.
Nhưng Thoán Từ thì lại giải thích khác: Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi, và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi.
Nhu có nghĩa là chờ đợi. Cũng có thể hiểu Nhu theo 2 nghĩa: Một là nuôi dưỡng yến lạc. Hai là sự chờ đợi. Hai ý nghĩa này không mâu thuẫn mà bổ túc cho nhau. Hiểu là trước hiểm họa, phải chờ đợi thời cơ thuận tiện để bồi dưỡng thân thể, tinh thần để thắng nó.
Xét về tài quẻ, ngôi vua ở hào Năm, chủ là sự chờ đợi, đức cứng mạnh, trung chính, bên trong dầy đặc có đức tin. Khi có đức tin thì sáng láng, hanh thông, được trinh chính. Được chính thì lợi hoàn thành Đại nghiệp.
Hình ảnh quẻ Thủy Thiên Nhu
Thoán từ: Nhu, hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên.
Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công.
Tượng quẻ: Quẻ Nhu Khảm trên gặp Càn dưới, Càn toàn dương mạnh hơn Khảm, Khảm chỉ có 1 hào dương. Cho nên, mặc dù có nguy hiểm đang chờ đợi, nhưng quẻ này đủ sức thắng nó, miễn sao biết xử sự theo đúng theo Càn đạo, vừa cương cường lại vừa sáng suốt.
Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.
Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà thành công.
Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời, thế nào cũng mưa; cứ "ăn uống yến lạc" (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ.
2. Quẻ Thủy Thiên Nhu động hào tam theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
福星照映
桂子香聞
滿天星斗
光耀人.
Dịch âm:
Phước tinh chiếu ánh
Quế tử hương văn
Mãn thiên tinh đẩu
Quang diệu nhân.
Dịch nghĩa:
Phước tinh chiếu sáng
Nghe được mùi thơm cây quế
Sao mọc đầy trời
Soi sáng mọi người.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Nhu vu nê, trí khấu chí." (Lưu lại nơi bùn lầy, là mời giặc đến.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng được phúc thọ phú quý đều cùng tới. Người được quẻ này thời vận đã đến lúc hanh thông, những việc mưu cầu sắt sẽ có kết quả mỹ mãn. Bạn hay mau tiến hành như đã định, chớ có chần chờ mà không hay. Cầu danh, cầu lợi đều được.
Quẻ này tượng đủ: Phúc thọ phú quý, nhất tề đều tới. Mọi người đều ca tụng, mọi nhà đều tính phục. Đây chính là hội tam đường khai thái (xuân về tốt đẹp đó). Người xin được quẻ này coi như quẻ thượng cát.
Phước tinh cao chiếu, quế thơm tràn khắp, đó là cảnh vinh hoa phú quí vậy. Nghĩa là người cầu được quẻ này, tức là thời vận đã đến hanh thông, những việc cầu mưu ắt kết quả mỹ mãn. Chẳng còn gì trở ngại nữa.
Vậy bạn hãy mau tiến hành những như đã định, để nắm lấy may mắn mà số phần đã dành sẵn. Tốt đẹp. Giàu sang vinh hiển đến kỳ cầu danh, cầu lợi đắc quả. Đánh số, thông.
Con số linh ứng: 2, 5, 25, 52, 55.