KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 254 - THỦY THIÊN NHU ĐỘNG HÀO NHỊ

1. Quẻ Thủy Thiên Nhu trong Kinh Dịch

Thủy Thiên Nhu: Thuận dã. Tương hội. Chờ đợi vì hiểm đằng trước, thuận theo, quây quần, tụ hội, vui hội, cứu xét, chầu về. Quân tử hoan hội chi tượng: quân tử vui vẻ hội họp, ăn uống chờ thời.
Quẻ trên là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy.
Nhưng Thoán Từ thì lại giải thích khác: Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi, và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi.

Nhu có nghĩa là chờ đợi. Cũng có thể hiểu Nhu theo 2 nghĩa: Một là nuôi dưỡng yến lạc. Hai là sự chờ đợi. Hai ý nghĩa này không mâu thuẫn mà bổ túc cho nhau. Hiểu là trước hiểm họa, phải chờ đợi thời cơ thuận tiện để bồi dưỡng thân thể, tinh thần để thắng nó.
Xét về tài quẻ, ngôi vua ở hào Năm, chủ là sự chờ đợi, đức cứng mạnh, trung chính, bên trong dầy đặc có đức tin. Khi có đức tin thì sáng láng, hanh thông, được trinh chính. Được chính thì lợi hoàn thành Đại nghiệp.

Hình ảnh quẻ Thủy Thiên Nhu

Thoán từ: Nhu, hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên.

Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công.

Tượng quẻ: Quẻ Nhu Khảm trên gặp Càn dưới, Càn toàn dương mạnh hơn Khảm, Khảm chỉ có 1 hào dương. Cho nên, mặc dù có nguy hiểm đang chờ đợi, nhưng quẻ này đủ sức thắng nó, miễn sao biết xử sự theo đúng theo Càn đạo, vừa cương cường lại vừa sáng suốt.

Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.
Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà thành công.
Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời, thế nào cũng mưa; cứ "ăn uống yến lạc" (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ.

2. Quẻ Thủy Thiên Nhu động hào nhị theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

已遂心頭願
始知志氣伸
三山須把握
頻頻定太平.

Dịch âm:

Dĩ toại tâm đầu nguyện
Thuỷ tri chí khí thân
Tam sơn tu bả ác
Tần tần định thái bình.

Dịch nghĩa:

Đã được toại ý về sự mong ước
Mới biết là nhờ chí khí mạnh mẽ mà thành
Cần phải nắm chắc ba núi
Lớp lớp an hưởng thái bình.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Nhu vu sa, tiểu hữu ngôn, chung cát." (Lưu lại nơi bãi cát, bị khiển trách nhẹ, rốt cuộc tốt lành.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng bình yên thịnh vượng, danh lợi được cả hai, mà chỉ có trục trặc nhỏ. Cầu việc thì có duyên tốt, xuất hành thì đại cát, cưới hỏi thì nhất định thành. Người được quẻ này cần phải biết, việc mưu cầu thành hay bại, nên khay không đều do mình định đoạt. Vì vậy mọi mưu cầu của bạn cần phải vạch kế hoạch có đầu có đuôi và đừng nản lòng thất chí, ắt sẽ thành công.
Quẻ này tượng: Toàn gia bình yên thịnh vượng, danh lợi được cả hai. Việc tốt đẹp vui mừng. Cầu mưu thì có duyên, xuất hành thì đại cát, việc cưới hỏi nhất định thành. Người xin được quẻ này an nhiên thụ hưởng hạnh phúc, khỏi cần phải nghi ngờ gì.
Theo ý quẻ thơ nói trên việc cầu thành hay bại, nên hay không đều do hai chữ "trung trinh" mà định đoạt. Vì câu chót nói: "luôn luôn ắt được thái bình cảnh vui" và tiếp câu thứ ba là: ba non nắm giữ trung trinh" Bởi vậy việc cầu mưu của bạn cần phải kế hoạch có đầu có đuôi và đừng nản lòng mà cố gắng cùng thì ắt sẽ nên công trong việc cầu.
Tất cả việc tính toán, cần tính toán nghiên cứu kỹ, trước lúc thực hành, thì mới mong thành sự. Ý quẻ khuyên: thận trọng. Chờ đợi. Đánh số được.

Con số linh ứng: 2, 4, 5, 24, 25, 42, 45, 54.