KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 257 - THỦY THIÊN NHU ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Thủy Thiên Nhu trong Kinh Dịch

Thủy Thiên Nhu: Thuận dã. Tương hội. Chờ đợi vì hiểm đằng trước, thuận theo, quây quần, tụ hội, vui hội, cứu xét, chầu về. Quân tử hoan hội chi tượng: quân tử vui vẻ hội họp, ăn uống chờ thời.
Quẻ trên là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy.
Nhưng Thoán Từ thì lại giải thích khác: Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi, và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi.

Nhu có nghĩa là chờ đợi. Cũng có thể hiểu Nhu theo 2 nghĩa: Một là nuôi dưỡng yến lạc. Hai là sự chờ đợi. Hai ý nghĩa này không mâu thuẫn mà bổ túc cho nhau. Hiểu là trước hiểm họa, phải chờ đợi thời cơ thuận tiện để bồi dưỡng thân thể, tinh thần để thắng nó.
Xét về tài quẻ, ngôi vua ở hào Năm, chủ là sự chờ đợi, đức cứng mạnh, trung chính, bên trong dầy đặc có đức tin. Khi có đức tin thì sáng láng, hanh thông, được trinh chính. Được chính thì lợi hoàn thành Đại nghiệp.

Hình ảnh quẻ Thủy Thiên Nhu

Thoán từ: Nhu, hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên.

Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công.

Tượng quẻ: Quẻ Nhu Khảm trên gặp Càn dưới, Càn toàn dương mạnh hơn Khảm, Khảm chỉ có 1 hào dương. Cho nên, mặc dù có nguy hiểm đang chờ đợi, nhưng quẻ này đủ sức thắng nó, miễn sao biết xử sự theo đúng theo Càn đạo, vừa cương cường lại vừa sáng suốt.

Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.
Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà thành công.
Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời, thế nào cũng mưa; cứ "ăn uống yến lạc" (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ.

2. Quẻ Thủy Thiên Nhu động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

死有日
生有時
何事慢躊躇
飄然一往
心上無疑.

Dịch âm:

Tử hữu nhật
Sanh hữu thời
Hà sự mạn trù trừ
Phiêu nhiên nhất vãng
Tâm thượng vô nghi.

Dịch nghĩa:

Chết có ngày
Sinh có giờ
Việc gì phải lo sợ
Cứ để mọi việc đến một cách tự nhiên
Trong tâm không còn nghi sợ gì.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Nhu vô tửu thực, trinh cát." (Lưu lại chỗ có ăn cơm uống rượu. Hào này tốt đẹp.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về sống chết có mạng, giàu sinh tự trời. Việc tới trước mắt mà cứ băn khoăn do dự, nghi ngại thì còn làm được gì. Đây chính là phép "trong cái chết tìm cái sống". Người được quẻ này cần phải thong dong mà ứng xử. Những mưu cầu của bạn hãy để cho nó tự nhiên, khi thời đến thì mặc sức mà tung hoành.
Quẻ này chủ sống chết có mạng, giàu sanh tự trời. Việc tới trước mắt mà cứ gãi đầu gãi tai, ra rồi lại vào, băn khoăn do dự, nghi ngại, lo âu thì còn làm được gì nữa. Quẻ này chính ra là một cái phép tử lý cầu sinh (trong cái chết tìm cái sống) đó. Người xin trúng quẻ này cần phải nuôi cái khí "Hạo nhiên" để tỏ chí cương cường khiến người ngoài kính phục.
Quẻ nói rằng sanh có giờ, và chết có ngày, nghĩa là cuộc đời của bạn sống trên trần gian sự vui khổ, giàu nghèo, đã định sẵn rồi, dầu bạn có cưỡng cũng chẳng được, là trời định vậy.
Vậy việc cầu xin của bạn hãy để cho nó tự nhiên, như xưa có câu: "mệnh trung hữu thời chung tu hữu, mệnh trung vô thời mạc cưỡng cần" bạn nên lấy câu đó tự suy nghĩa ắt bớt được khổ não trong hoàn cảnh thiếu nầy.
Hãy ẩn nhẫn chờ thời. Khi thời đến, như cánh chim tung trời. Lo gì, chí nguyện chẳng toại. Đánh số, chưa thuận lắm.

Con số linh ứng: 2, 5, 7, 25, 27, 57, 72, 75.