KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 250 - THỦY PHONG TỈNH ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Thủy Phong Tỉnh trong Kinh Dịch

Thủy Phong Tỉnh: Tịnh dã. Trầm lặng. Ở chỗ nào cứ ở yên chỗ đó, xuống sâu, vực thẳm có nước, dưới sâu, cái giếng. Càn Khôn sát phối chi tượng: Trời Đất phối hợp lại.
Lên (Thăng) tới cùng thì bị khốn, mà té xuống dưới, cho nên sau quẻ Khốn tới quẻ Tỉnh (giếng, tức chỗ thấp hơn hết).

Quẻ Tỉnh có chính sách khoan hồng đại độ nhưng gặp lắm hiểm nguy, gây rối loạn nên không khéo léo có thể đi tới những sai biệt to lớn. Nên biết cách kết hợp với người tài, đức lớn mọi sự ắt thuận.

Hình ảnh quẻ Thủy Phong Tỉnh

Thoán từ: Tỉnh, cải ấp bất cải tỉnh, vô đắc vô táng, vãng lai tỉnh tỉnh.

Giếng: đổi ấp chứ không đổi giếng, nước giếng không kiệt mà cũng không thêm; người qua người lại để múc nước giếng. Gần đến nơi (đến giếng), chưa kịp thòng dây gàu xuống mà bể cái bình đựng nước, thì xấu.

Tượng quẻ: Ngoại quái Khảm, nội quái Tốn tượng trưng cho giếng nước nuôi dân mãi mặc dầu thời thế có thay đổi như nào.

Theo tượng quẻ, trên là nước (Khảm), dưới là gỗ (Tốn ở đây không hiểu là gió mà hiểu là cây, là đồ bằng gỗ - trỏ cái gàu), có nghĩa là thòng cái gàu xuống nước để múc lên.
Theo hình của quẻ: dưới cùng là một âm, như mạch nước, rồi tiến lên là hai hào dương, như lớp đất ở đáy giếng; tiến lên nữa là hào âm, tức nước giếng, lòng giếng: trên nữa là một vạch liền, tức cái nấp giếng, trên cùng là một vạch đứt, tức miệng giếng.
Đại tượng truyện giảng một cách khác: nước (Khảm) ở trên cây (Tốn), tức là nhựa (nước từ dưới đất theo thân cây lên) ở ngọn cây, cũng như mạch nước ở trong giếng, chảy ra, cho nên gọi là quẻ Tỉnh.
Bản thể của cái giếng là ở đâu thì ở đấy, ấp còn có khi thay đổi, chứ giếng thì cố định; có nước mạch chảy vô giếng hoài, nên nước giếng không kiệt, nhưng nước giếng chỉ lên tới một mực nào đó, không khi nào tràn ra. Công dụng của giếng là ai cũng lại giếng để lấy nước (tỉnh tỉnh: chữ tỉnh trên là động từ, chữ tỉnh dưới là danh từ), kẻ qua người lại thường, người nào cũng nhờ nó mà có nước, nó giúp đỡ mọi người mà như vô tâm.
Nói về nhân sự thì người đi lấy nước, đã gần tới rồi, chưa kịp thòng dây gàu (duật) xuống, mà đánh vỡ cái bình đựng nước thì thật uổng công; vậy làm việc gì cũng phải cẩn thận, đến nơi đến chốn để khỏi thất bại nửa chừng.
Thoán truyện bảo giếng ở đâu ở đấy, không thay đổi như ấp, vậy là có đức cương trung của hào 2 và hào 5.
Đại tượng truyện khuyên người quân tử nên coi tượng cái giếng mà nuôi dân và chỉ cho dân cách giúp đỡ lẫn nhau.

2. Quẻ Thủy Phong Tỉnh động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

女兒大
喜臨門
嫁良人
添子孫
同拜受
感皇恩.

Dịch âm:

Nữ nhi đại
Hỉ lâm môn
Giá lương nhân
Thiêm tử tôn
Đồng bái thụ
Cảm hoàng ân.

Dịch nghĩa:

Con gái lớn
Vui đến nhà
Gả người tốt
Sinh cháu con
Cùng lạy tạ
Cảm ơn vua.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tĩnh trứu. Vô cữu." (Dùng ngói nung đắp vách giếng. Hào này không có tai họa.
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về việc trông dưa được dưa, trồng đậu được đậu, gái lớn thì gả chồng, có làm thì mới có ăn, không ai đến cho không. Nếu tích cực làm việc thì lo gì không có kết quả tốt đẹp. Người được quẻ này nên cố gắng nhiều, những mưu cầu của bạn sẽ thành đạt.
Quẻ này chủ trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, gái lớn thì gả chồng, ai cũng biết có làm thì phải có ăn, không ai lại đem phần đến cho. Nếu tích cực làm việc để trở thành người tốt, thì lo gì mà không có kết quả tốt đẹp. Người xin được quẻ này nên cố gắng nhiều hơn thì phải đẹp.
Theo ý quẻ nói, hiện nay thời vận của bạn đã đến lúc lên hương rồi như con đã trưởng thành vậy. Cho nên, những việc cầu mưu của bạn, hãy nên bước tối đi, sẽ thành đạt ý muốn. Như quẻ nói, đi tìm được duyên nợ cho chúng rồi, thì ắt sinh con đẻ cháu cho mình vậy.
Thời vận hanh thông hạnh phúc đầy đủ. Chẳng lo gì nữa. Đánh số tốt.

Con số linh ứng: 2, 5, 20, 25, 50, 52.