KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 251 - THỦY PHONG TỈNH ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Thủy Phong Tỉnh trong Kinh Dịch

Thủy Phong Tỉnh: Tịnh dã. Trầm lặng. Ở chỗ nào cứ ở yên chỗ đó, xuống sâu, vực thẳm có nước, dưới sâu, cái giếng. Càn Khôn sát phối chi tượng: Trời Đất phối hợp lại.
Lên (Thăng) tới cùng thì bị khốn, mà té xuống dưới, cho nên sau quẻ Khốn tới quẻ Tỉnh (giếng, tức chỗ thấp hơn hết).

Quẻ Tỉnh có chính sách khoan hồng đại độ nhưng gặp lắm hiểm nguy, gây rối loạn nên không khéo léo có thể đi tới những sai biệt to lớn. Nên biết cách kết hợp với người tài, đức lớn mọi sự ắt thuận.

Hình ảnh quẻ Thủy Phong Tỉnh

Thoán từ: Tỉnh, cải ấp bất cải tỉnh, vô đắc vô táng, vãng lai tỉnh tỉnh.

Giếng: đổi ấp chứ không đổi giếng, nước giếng không kiệt mà cũng không thêm; người qua người lại để múc nước giếng. Gần đến nơi (đến giếng), chưa kịp thòng dây gàu xuống mà bể cái bình đựng nước, thì xấu.

Tượng quẻ: Ngoại quái Khảm, nội quái Tốn tượng trưng cho giếng nước nuôi dân mãi mặc dầu thời thế có thay đổi như nào.

Theo tượng quẻ, trên là nước (Khảm), dưới là gỗ (Tốn ở đây không hiểu là gió mà hiểu là cây, là đồ bằng gỗ - trỏ cái gàu), có nghĩa là thòng cái gàu xuống nước để múc lên.
Theo hình của quẻ: dưới cùng là một âm, như mạch nước, rồi tiến lên là hai hào dương, như lớp đất ở đáy giếng; tiến lên nữa là hào âm, tức nước giếng, lòng giếng: trên nữa là một vạch liền, tức cái nấp giếng, trên cùng là một vạch đứt, tức miệng giếng.
Đại tượng truyện giảng một cách khác: nước (Khảm) ở trên cây (Tốn), tức là nhựa (nước từ dưới đất theo thân cây lên) ở ngọn cây, cũng như mạch nước ở trong giếng, chảy ra, cho nên gọi là quẻ Tỉnh.
Bản thể của cái giếng là ở đâu thì ở đấy, ấp còn có khi thay đổi, chứ giếng thì cố định; có nước mạch chảy vô giếng hoài, nên nước giếng không kiệt, nhưng nước giếng chỉ lên tới một mực nào đó, không khi nào tràn ra. Công dụng của giếng là ai cũng lại giếng để lấy nước (tỉnh tỉnh: chữ tỉnh trên là động từ, chữ tỉnh dưới là danh từ), kẻ qua người lại thường, người nào cũng nhờ nó mà có nước, nó giúp đỡ mọi người mà như vô tâm.
Nói về nhân sự thì người đi lấy nước, đã gần tới rồi, chưa kịp thòng dây gàu (duật) xuống, mà đánh vỡ cái bình đựng nước thì thật uổng công; vậy làm việc gì cũng phải cẩn thận, đến nơi đến chốn để khỏi thất bại nửa chừng.
Thoán truyện bảo giếng ở đâu ở đấy, không thay đổi như ấp, vậy là có đức cương trung của hào 2 và hào 5.
Đại tượng truyện khuyên người quân tử nên coi tượng cái giếng mà nuôi dân và chỉ cho dân cách giúp đỡ lẫn nhau.

2. Quẻ Thủy Phong Tỉnh động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

木生火
口不噤
瘋癲作症
寒熱相侵.

Dịch âm:

Mộc sanh hoả
Khẩu bất cấm
Phong điên tác chứng
Hàn nhiệt tương xâm.

Dịch nghĩa:

Mộc sanh hỏa
Miệng không cấm
Bị chứng phong điên
Nóng lạnh xâm hại.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tĩnh liệt, hàn tuyền thực." (Nước giếng trong trẻo, uống rất mát.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về bệnh tật do can mộc vượng hại tâm hỏa. Ý cho biết, vận trình của bạn đang rất xấu, khó mà làm nên việc gì trong thời gian này. Mọi mưu cầu cũng khó được như ý, cần phải ngừng tính toán phát triển, mà nên chỉnh đốn lại, như tượng quẻ nói tìm giếng trong mà uống nước mát vậy.
Quẻ này chủ trong lo ngoài sợ, đồng thời kéo thới ví như: khi ốm can mộc (can thuộc gỗ) đã vương thì điên khùng ắt gây nên tâm hỏa lại bốc cháy, thì nóng lạnh tất sinh ra. Lúc đó thì dù có hàng trăm hàng ngàn lương y thì cũng chỉ khoanh tay ngồi nhìn mà thôi. Đâu là một quẻ hung (độc dữ) rất đáng lo ngại.
Theo ý quẻ cho biết, vận trình của bạn rất xấu, khó mà làm nên việc gì trong thời gian này. Cũng như cầu xin một việc gì khác. Cũng khó được như ý, vậy cần phải ngừng công việc tính toán lại và phải đề phòng những đều không may đưa đến, bởi quẻ đã mách rõ ở hai câu thơ trước, một cách bất minh rồi.
Bế tắc chẳng làm gì được. Thận trọng và ngừng ngay việc đang tính toán. Đánh số dở.

Con số linh ứng: 1, 2, 5, 12, 21, 25, 51, 52.