KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 279 - THỦY LÔI TRUÂN ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Thủy Lôi Truân trong Kinh Dịch

Thủy Lôi Truân: Nạn dã. Gian lao. Yếu đuối, chưa đủ sức, ngần ngại, do dự, vất vả, phải nhờ sự giúp đỡ. Tiền hung hậu kiết chi tượng: trước dữ sau lành.
Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn

Quẻ này trong chỗ hiểm động được. Có thể hanh thông, mà ở chỗ hiểm, tốt nhất nên giữ cho đường ngay thẳng, chớ nên vội tiến. Lời Chiêm là cả hanh và lợi về đường ngay thẳng.

Hình ảnh quẻ Thủy Lôi Truân

Thoán từ: Truân nguyên hanh lợi trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.

Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu).

Tượng quẻ: Là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm.Truân chỉ thời kỳ gian nan, vất vả lúc ban đầu, khác với quẻ Khôn là gian nan lúc giữa cuộc, khác với quẻ Khốn là khốn khổ lúc chung cuộc. Tượng quẻ là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm, cho nên tên nó là Truân. Nguy hiểm ở ngoài (Khảm), ở trong thì náo loạn (Chấn). Tức là những khó khăn gặp phải khi mới hình thành.

Thoán truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau:
Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở) cho nên có nghĩa là truân.
Lại thêm: nội quái có một hào dương (cương) hai hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật màl úc đầu bao giờ cũng gian nan: truân.
Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên tước hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu torng nội quái (chấn) có nghĩa họat động. buổi đầu gian nan thì được người đó, tỉ như lập được một đòan thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân.

2. Quẻ Thủy Lôi Truân động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

蟄龍已出世
頭角首生成
雲興雨澤
得濟蒼生.

Dịch âm:

Chập long dĩ xuất thế
Đầu giác thủ sinh thành
Vân hưng vũ trạch
Đắc tể thương sinh.

Dịch nghĩa:

Rồng ẩn đã xuất thế
Sừng đầu trước đã thành
Mây nổi mưa ao đầm
Cứu sống được người.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tức lộc vô ngu, duy nhập ư lâm trung. Quân tử cơ bất như xả. Vãng lận." (Đuổi theo con nai, lại không có người dẫn đường, đành nhìn con nai chạy vào rừng. Người quân tử muốn bắt nó không bằng bỏ đi, đi thì khó khăn.
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng người có việc muốn thực hiện mà không có người trợ giúp. Cho nên cần kết bạn, đồng tâm hiệp lực thì mới nên. Những mưu cầu của bạn có gặp khó khăn, phải cố công thì may ra. Cầu tài có sự góp sức của nhiều người thì việc mới thành công.
Quẻ này chủ hai người đồng tâm hiệp lực, lợi có bạc vàng. Sách có chữ: Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư, đông người thì mạnh sức, mạnh sức thì dễ nâng. Nếu trái lại cô chưởng ắt năng minh. Cái ý sâu xa là như vậy. Người xin há lại không biết điều đó sao.
Theo ý quẻ cho biết. Việc cầu xin của bạn, khó khăn như ý quẻ nói nếu nhứt định cầu tính cho nên. Việc phải cố công thì may ra cưỡng thành, vì quẻ thơ khuyên rằng đừng đi nữa trong đêm khuya, e rằng gặp ma tác quái, làm hỏng công việc, nếu cần phải đi thì nên rủ bè kết bạn cùng đi chơi mới tránh được những sự kinh tâm.
Vậy việc cùng cầu xin của bạn, 1 là ngừng bước bỏ qua ý định chờ đợi dịp khác, 2 là muốn tiến tới phải suy tính cho kỹ và nên nhờ sức giúp đỡ của đông người, thì mới nên việc.
Bất thông, phòng kẻ phản bạn và kẻ bất lương phá hoại. Cầu tài có sự góp sức của đông người, hay hợp tác với người thì việc mới mong thành công. Đánh số, không mấy hạp.

Con số linh ứng: 1, 6, 8, 16, 18, 61, 68, 86.