KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 278 - THỦY LÔI TRUÂN ĐỘNG HÀO NHỊ

1. Quẻ Thủy Lôi Truân trong Kinh Dịch

Thủy Lôi Truân: Nạn dã. Gian lao. Yếu đuối, chưa đủ sức, ngần ngại, do dự, vất vả, phải nhờ sự giúp đỡ. Tiền hung hậu kiết chi tượng: trước dữ sau lành.
Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn

Quẻ này trong chỗ hiểm động được. Có thể hanh thông, mà ở chỗ hiểm, tốt nhất nên giữ cho đường ngay thẳng, chớ nên vội tiến. Lời Chiêm là cả hanh và lợi về đường ngay thẳng.

Hình ảnh quẻ Thủy Lôi Truân

Thoán từ: Truân nguyên hanh lợi trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.

Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu).

Tượng quẻ: Là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm.Truân chỉ thời kỳ gian nan, vất vả lúc ban đầu, khác với quẻ Khôn là gian nan lúc giữa cuộc, khác với quẻ Khốn là khốn khổ lúc chung cuộc. Tượng quẻ là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm, cho nên tên nó là Truân. Nguy hiểm ở ngoài (Khảm), ở trong thì náo loạn (Chấn). Tức là những khó khăn gặp phải khi mới hình thành.

Thoán truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau:
Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở) cho nên có nghĩa là truân.
Lại thêm: nội quái có một hào dương (cương) hai hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật màl úc đầu bao giờ cũng gian nan: truân.
Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên tước hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu torng nội quái (chấn) có nghĩa họat động. buổi đầu gian nan thì được người đó, tỉ như lập được một đòan thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân.

2. Quẻ Thủy Lôi Truân động hào nhị theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

黑夜裏
勿前往
一有值
要著慌
牢牢記
須結黨.

Dịch âm:

Hắc dạ lí
Vật tiền vãng
Nhất hữu trị
Yêu trước hoảng
Lao lao kí
Tu kết đảng.

Dịch nghĩa:

Trong đêm tối
Chớ đi tới
Biết điều này
Không còn sợ
Nếu phải đi
Cần có bạn.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Truân như chiên như, thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu. Nũ tử trinh bất tự, thập nhiên nãi tự." (Nhiều người cùng đến, họ cưỡi ngựa dùng dằng, không phải giặc cướp mà là đến cầu hôn. Thiếu nữ bói quẻ này không hứa gả, mười năm sau mới gả.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng đứng núi này trông núi nọ. Người được quẻ này nên có thái độ an phận thủ thường là tốt nhất. Vận trình cũng như những mưu cầu của bạn đều bình thường, cho nên đừng có cao vọng quá mà có tai hại, phải lượng sức mình mà tính thì công việc mới dễ thành công hơn. Cầu việc phải chờ đợi lâu.
Quẻ này có cái tượng: Thủy hỏa ký tế (nước lửa đều hay) lại có thêm phúc thanh. Tuy nhiên thế tình thường đứng núi này trông núi nọ, ở Lũng (Tây) lại nhìn Thục (Ba), phần nhiều chẳng hội đủ, cho nên lúc nào cũng lo âu băn khoăn nơm nớp. Người xin quẻ này chớ nên có thái độ như vậy, trái lại lấy việc an phận thủ kỷ làm quý.
Quẻ ý cho hay người cầu được quẻ này, vận trình cũng như những việc cầu mưu đều được bình thường không tốt, mà chẳng xấu và nên đừng nuôi lòng quá tham thì có hại, phải lượng sức mình mà tính mưu, công việc mới dễ thành công hơn và mới tránh được điều không xảy đến. Mong bạn hãy ngâm kỹ hai câu sau của bài thơ sẽ rõ ý quẻ đấy.
Chớ tham, chớ lo, cứ để từ từ thời vận đến, thì mọi sự ắt hanh thông Cầu sự chưa thông lắm, chờ đợi, đánh số phải cẩn thận.

Con số linh ứng: 2, 7, 8, 27, 28, 72, 82.