KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 277 - THỦY LÔI TRUÂN ĐỘNG HÀO NHẤT
1. Quẻ Thủy Lôi Truân trong Kinh Dịch
Thủy Lôi Truân: Nạn dã. Gian lao. Yếu đuối, chưa đủ sức, ngần ngại, do dự, vất vả, phải nhờ sự giúp đỡ. Tiền hung hậu kiết chi tượng: trước dữ sau lành.
Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn
Quẻ này trong chỗ hiểm động được. Có thể hanh thông, mà ở chỗ hiểm, tốt nhất nên giữ cho đường ngay thẳng, chớ nên vội tiến. Lời Chiêm là cả hanh và lợi về đường ngay thẳng.
Hình ảnh quẻ Thủy Lôi Truân
Thoán từ: Truân nguyên hanh lợi trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.
Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu).
Tượng quẻ: Là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm.Truân chỉ thời kỳ gian nan, vất vả lúc ban đầu, khác với quẻ Khôn là gian nan lúc giữa cuộc, khác với quẻ Khốn là khốn khổ lúc chung cuộc. Tượng quẻ là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm, cho nên tên nó là Truân. Nguy hiểm ở ngoài (Khảm), ở trong thì náo loạn (Chấn). Tức là những khó khăn gặp phải khi mới hình thành.
Thoán truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau:
Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở) cho nên có nghĩa là truân.
Lại thêm: nội quái có một hào dương (cương) hai hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật màl úc đầu bao giờ cũng gian nan: truân.
Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên tước hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu torng nội quái (chấn) có nghĩa họat động. buổi đầu gian nan thì được người đó, tỉ như lập được một đòan thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân.
2. Quẻ Thủy Lôi Truân động hào nhất theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
有子長
成水局
時遇火反發福
不必過憂煎
人心苦不足.
Dịch âm:
Hữu tử trưởng
Thành thuỷ cục
Thời ngộ hoả phản phát phúc
Bất tất quá ưu tiễn
Nhân tâm khổ bất túc.
Dịch nghĩa:
Có con lớn
Thành thủy cục rồi thì dù gặp hỏa phản lại cũng phát phúc mà thôi
Chẳng cần phải lo lắng nhiều
Cái khổ con người nói sao cho hết.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu." (Tường làm bằng đá, bó về chỗ ở thì có lợi, phong lập chư hầu thì có lợi.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng khách giang hồ phiêu bạt, vui cùng trời đất, tùy cảnh ngộ mà yên thân, chẳng tính toán thiệt hơn, không mưu đồ danh vọng. Nếu không phải kẻ có chí khí lớn lao cao thượng thì làm sao như thế được. Người được quẻ này nên suy nghĩ tới điều này. Những mưu cầu của bạn hãy để tự nhiên thì tốt hơn. Quẻ này không tốt lắm, mà cũng chẳng xấu, mưu sự cũng sẽ được toại nguyện, nhưng nên hợp tác với người khác.
Quẻ này tượng: Kẻ giang hồ vui cùng trời đất, tùy cảnh ngộ mà yên thân, tuy cuộc sống phong trần lận đận quan san đâu có kể gì. Trèo đèo vượt suối, chẳng bao giờ quan ngại, nếu không phải người đạt nhân chí khí khá lớn lao cao thượng thì làm sao như thế được. Người xin được quẻ này nên rất suy nghĩ tới đó.
Câu nói phú quý trời đã định, ta có cần cầu chi, đó là ý quẻ muốn mách bạn vậy. Do đó, những việc cầu xin của bạn hãy cho nó tự nhiên là hơn, tuy nhiên cũng phải sự tại nhân, nghĩa là mình cũng phải lo lắng việc cầu. Tóm lại người cầu được quẻ này không tốt lắm, mà chẳng xấu lắm, nhưng sự mưu cũng được toại nguyện phần nào thôi.
Bình thường, khuyên người chớ lo, cứ để thời đến là hay, cứ xem việc đời giấc mộng, nào có sá gì. Đánh số hạp ít.
Con số linh ứng: 2, 7, 27, 72, 77.