KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 282 - THỦY LÔI TRUÂN ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Thủy Lôi Truân trong Kinh Dịch

Thủy Lôi Truân: Nạn dã. Gian lao. Yếu đuối, chưa đủ sức, ngần ngại, do dự, vất vả, phải nhờ sự giúp đỡ. Tiền hung hậu kiết chi tượng: trước dữ sau lành.
Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn

Quẻ này trong chỗ hiểm động được. Có thể hanh thông, mà ở chỗ hiểm, tốt nhất nên giữ cho đường ngay thẳng, chớ nên vội tiến. Lời Chiêm là cả hanh và lợi về đường ngay thẳng.

Hình ảnh quẻ Thủy Lôi Truân

Thoán từ: Truân nguyên hanh lợi trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.

Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu).

Tượng quẻ: Là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm.Truân chỉ thời kỳ gian nan, vất vả lúc ban đầu, khác với quẻ Khôn là gian nan lúc giữa cuộc, khác với quẻ Khốn là khốn khổ lúc chung cuộc. Tượng quẻ là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm, cho nên tên nó là Truân. Nguy hiểm ở ngoài (Khảm), ở trong thì náo loạn (Chấn). Tức là những khó khăn gặp phải khi mới hình thành.

Thoán truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau:
Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở) cho nên có nghĩa là truân.
Lại thêm: nội quái có một hào dương (cương) hai hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật màl úc đầu bao giờ cũng gian nan: truân.
Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên tước hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu torng nội quái (chấn) có nghĩa họat động. buổi đầu gian nan thì được người đó, tỉ như lập được một đòan thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân.

2. Quẻ Thủy Lôi Truân động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

有田一畝
盡可耕耘
無窮收穫
都在西成.

Dịch âm:

Hữu điền nhất mẫu
Tận khả canh vân
Vô cùng thu hoạch
Đô tại tây thành.

Dịch nghĩa:

Có một mẫu ruộng
Hết sức cày cấy
Thu hoạch được nhiều
Đều ở thành Tây.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Thừa mã ban như, khấp huyết liên như." (Cưỡi con ngựa trở về, khó mà máu chảy dầm dề.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này có tượng người tri âm là hiếm. Cho nên người được quẻ này chớ có giao du bừa bãi, và nhất là chớ có lầm đường lạc lối, đi vào trong ngõ cụt, mà phải chịu lụy phiền. Mưu cầu nên nhằm hướng Nam thì dễ thành hơn.
Quẻ này cho biết: Người tri âm rất ích, Người xin được quẻ này chớ có giao du bừa bãi, và nhất là chớ có lầm đường lạc lối đi vào trong ngõ bí, hẻm cụt, khiến đến đều chịu lụy.
Mưu cầu nên nhắm vào hướng Nam mắt dễ dàng thành đạt hơn, đó là trọng tâm lời nhắn của quẻ đấy. Và quẻ cũng nhắc bạn rằng, đừng nên làm theo người ta cứ chiều theo ý định của mình mà làm tự nhiên cũng có quý nhân giúp cho công việc thành tựu như quẻ đã ám chỉ ở hai câu sau bài thơ trên.
Tốt đẹp, cứ đi về phương Nam mà tính thì sự ắt thành. Biểu tượng: Ngựa. Đánh số tốt.

Con số linh ứng: 1, 2, 8, 12, 21, 28, 81, 82.