KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 286 - THỦY HỎA KÝ TẾ ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế trong Kinh Dịch

Thủy Hỏa Ký Tế: Hợp dã. Hiện hợp. Gặp nhau, cùng nhau, đã xong, việc xong, hiện thực, ích lợi nhỏ. Hanh tiểu giả chi tượng: việc nhỏ thì thành.
Quá là hơn, tài đức có chỗ nào hơn người trong một việc gì đó thì làm nên việc ấy, cho nên sau quẻ Tiểu quá tởi quẻ Kí tế. Tế là vượt qua sông, là nên; kí tế là đã vượt qua, đã nên, đã thành.

Quẻ Ký Tế báo hiệu kết thúc toàn bộ những rối loạn hiểm nguy, thời kỳ thịnh vượng bắt đầu. Quẻ này có các hào âm dương xem lẫn thể hiện sự hợp tác rất tốt, lưu ý khó được bền lâu. Muốn thành công lớn, bền lâu cần giữ gìn cẩn thận, nếu không sẽ sụp đổ.

Hình ảnh quẻ Thủy Hỏa Ký Tế

Thoán từ: Ký tế hanh, tiểu lợi trinh, sơ cát, chung loạn.

Đã xong: Hanh thông, nếu làm nốt các việc nhỏ, cố giữ được những việc đã thành rồi thì mới lợi. Mới đầu tốt, cuối cùng thì loạn (nát bét).

Tượng quẻ: Ngoại quái Khảm, nội quái Ly có nghĩa là nước lửa giao nhau, sau hào đều đắc chính nên mọi việc tất thảy thành công.

Trong thoán từ này, hai chữ "Hanh tiểu", Chu Hi ngờ là "tiểu hanh" mới đúng; tiểu hanh nghĩa là việc nhỏ, được hanh thông. Chúng tôi cho cách hiểu của Phan Bội Châu (theo Thoán truyện) là đúng hơn, nên dịch như trên.
Quẻ này trên là nước, dưới là lửa. Lửa có tính bốc lên mà ở dưới nước , nước thì chảy xuống, thế là nước với lửa giao với nhau, giúp nhau mà thành công. Cũng như nồi nước để ở trên bếp lửa, lửa bốc lên mà nước mới nóng, mới sôi được.
Lại xét sáu hào trong 1: hào dương nào cũng ở vị dương hào âm nào cũng ở vị âm; mà hào nào cũng có ứng viện: 1 dương có 4 âm ứng; 2, âm có 5 dương, ứng; 3, dương , có 6 âm ứng; đâu đó tốt đẹp cả, mọi việc xong xuôi, thế là hanh thông.
Ở vào thời Kí tế, việc lớn đã xong, còn những việc nhỏ cũng phải làm cho xong nữa, thì mới thật là hoàn thành. Hoàn thành rồi lại phải cố giữ được sự nghiệp; nếu không thì chỉ tốt lúc đầu thôi mà rốt cuộc sẽ nát bét. Nghĩa lúc trị phải lo trước tới lúc loạn.
Thoán truyện giảng mới đầu tốt vì hào 2 ở nội quái có đức nhu thuận mà đắc trung; và rốt cuộc sẽ loạn vì ngừng không tiến nữa, không đề phòng nữa (chung chỉ tắc loạn).
Đại Tượng truyện cũng căn dặn phải phòng trước lúc loạn, lúc suy.

2. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

葵花向日
忠赤傾心
大開廣廈
樂享太平.

Dịch âm:

Quì hoa hướng nhật
Trung xích khuynh tâm
Đại khai quảng hạ
Lạc hưởng thái bình.

Dịch nghĩa:

Hoa quì hướng mặt trời
Lòng trung đỏ cả cõi lòng
Mở mang sự nghiệp rộng lớn
Vui hưởng cảnh thái bình.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Như hữu y như, chung nhật giới, " (Lúc vượt qua sông, làm ướt y phục, suốt ngày cảnh giác đề phòng.)
Theo ý thơ của Khổng minh, quẻ này chủ về người đàn ông là chí phải ở bốn phương, cứ quyến luyến quê nhà thì còn làm được việc gì. Muốn kiếm công lập nghiệp thì phải xa quê hương. Phàm mưu cầu việc gì thì phải nắm lấy cái lớn, chớ nên cố chấp tiểu tiết. Lúc vận thời đã đến, bạn cứ nên nắm lấy, nên hành động cho kịp thời, chớ có chần chừ.
Quẻ này chủ người con trai ở chí bốn phương, mạo hiểm mà tiến lên, tự nhiên có chỗ hữu ích, cứ quyến luyến quê hương gia đình thì còn làm được việc gì. Bảy, Tám tức là tháng Bảy và tháng Tám. Nếu ra đi kiến công lập nghiệp vào những tháng Bảy và tháng Tám thì rất lợi. Và nhất là tìm một nơi địa danh có chữ "Sa" thì tốt nhất (đó là ý nghĩa của câu thơ chót).
Ý quẻ muốn nói, muốn lập nghiệp thành đại sự, thì phải xa quê, mất thế xung pha mới nên công nghiệp. Phàm mưu cầu việc gì thì phải nắm lấy cái lớn, chớ nên cố chấp tiểu tiết. Vậy tức là vận thời đã đến, bạn nên nắm lấy dịp may trong lúc này, ắt thu lượm được nhiều thành công.
Nên hành động kịp thời. Hãy lên đường lập nghiệp, chớ chần chờ. Thời vận đến có thể làm nên. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 2, 6, 8, 26, 28, 68, 82.