KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 284 - THỦY HỎA KÝ TẾ ĐỘNG HÀO NHỊ

1. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế trong Kinh Dịch

Thủy Hỏa Ký Tế: Hợp dã. Hiện hợp. Gặp nhau, cùng nhau, đã xong, việc xong, hiện thực, ích lợi nhỏ. Hanh tiểu giả chi tượng: việc nhỏ thì thành.
Quá là hơn, tài đức có chỗ nào hơn người trong một việc gì đó thì làm nên việc ấy, cho nên sau quẻ Tiểu quá tởi quẻ Kí tế. Tế là vượt qua sông, là nên; kí tế là đã vượt qua, đã nên, đã thành.

Quẻ Ký Tế báo hiệu kết thúc toàn bộ những rối loạn hiểm nguy, thời kỳ thịnh vượng bắt đầu. Quẻ này có các hào âm dương xem lẫn thể hiện sự hợp tác rất tốt, lưu ý khó được bền lâu. Muốn thành công lớn, bền lâu cần giữ gìn cẩn thận, nếu không sẽ sụp đổ.

Hình ảnh quẻ Thủy Hỏa Ký Tế

Thoán từ: Ký tế hanh, tiểu lợi trinh, sơ cát, chung loạn.

Đã xong: Hanh thông, nếu làm nốt các việc nhỏ, cố giữ được những việc đã thành rồi thì mới lợi. Mới đầu tốt, cuối cùng thì loạn (nát bét).

Tượng quẻ: Ngoại quái Khảm, nội quái Ly có nghĩa là nước lửa giao nhau, sau hào đều đắc chính nên mọi việc tất thảy thành công.

Trong thoán từ này, hai chữ "Hanh tiểu", Chu Hi ngờ là "tiểu hanh" mới đúng; tiểu hanh nghĩa là việc nhỏ, được hanh thông. Chúng tôi cho cách hiểu của Phan Bội Châu (theo Thoán truyện) là đúng hơn, nên dịch như trên.
Quẻ này trên là nước, dưới là lửa. Lửa có tính bốc lên mà ở dưới nước , nước thì chảy xuống, thế là nước với lửa giao với nhau, giúp nhau mà thành công. Cũng như nồi nước để ở trên bếp lửa, lửa bốc lên mà nước mới nóng, mới sôi được.
Lại xét sáu hào trong 1: hào dương nào cũng ở vị dương hào âm nào cũng ở vị âm; mà hào nào cũng có ứng viện: 1 dương có 4 âm ứng; 2, âm có 5 dương, ứng; 3, dương , có 6 âm ứng; đâu đó tốt đẹp cả, mọi việc xong xuôi, thế là hanh thông.
Ở vào thời Kí tế, việc lớn đã xong, còn những việc nhỏ cũng phải làm cho xong nữa, thì mới thật là hoàn thành. Hoàn thành rồi lại phải cố giữ được sự nghiệp; nếu không thì chỉ tốt lúc đầu thôi mà rốt cuộc sẽ nát bét. Nghĩa lúc trị phải lo trước tới lúc loạn.
Thoán truyện giảng mới đầu tốt vì hào 2 ở nội quái có đức nhu thuận mà đắc trung; và rốt cuộc sẽ loạn vì ngừng không tiến nữa, không đề phòng nữa (chung chỉ tắc loạn).
Đại Tượng truyện cũng căn dặn phải phòng trước lúc loạn, lúc suy.

2. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế động hào nhị theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

六牛耕地
墾開無疆
收成結實
盈稟盈倉.

Dịch âm:

Lục ngưu canh địa
Khẩn khai vô cương
Thu thành kết thực
Doanh bẩm doanh thương.

Dịch nghĩa:

Sáu trâu cày đất
Mở mang ruộng đất rất nhiều
Thu được kết quả
Đầy kho đầy vựa.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Phụ táng kỳ phất, vật trục, thất nhật đắc." (Người đàn bà mất cây trâm cài đầu, không cần đi tìm, bảy ngày sau có thể được lại.)
Theo ý thơ của Khổng minh, quẻ này có tượng mất vật rồi được lại. Phàm kẻ trí thì kín miệng, cho nên ít bị oán trách. Người được quẻ này cần phải hết sức thận trọng trong lời ăn tiếng nói. Nếu khéo léo ứng phó với hoàn cảnh, những mưu cầu của bạn ắt sẽ được toại nguyện. Chớ khinh công việc nhỏ, cứ tiến hành, nhiều việc nhỏ gộp lại sẽ thành việc lớn.
Hai câu thơ đầu ý nói: Một lời đã nói ra, 4 con ngựa tứ đuổi cũng không kịp. Còn hai câu sau ý nói: người vàng thì kín miệng, cho nên ít bị lầm oán trách. Người xin được quẻ này cần phải cẩn thận hết sức lời ăn tiếng nói.
Quẻ mách rằng: Phàm việc mưu cầu chớ nên chê khen việc gì, nhứt là người chê thì ta lại làm được thành công hơn, ví dụ người ta đều tính chuyện làm ăn to lớn mà ta lại chỉ tính làm ăn việc nhỏ, thì ắt vững bền và chằc ăn đó là ý quẻ muốn nói vậy.
Những sự cầu xin của bạn phải khôn lanh, ứng phó hoàn cảnh, ắt được toại nguyện sở cầu. Chớ khinh công việc. Cứ tiến hành làm, nhiều việc nhỏ gọp lại thành lớn, và thành tựu chắc hơn. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 2, 4, 8, 24, 42, 48, 84.