KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 283 - THỦY HỎA KÝ TẾ ĐỘNG HÀO NHẤT

1. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế trong Kinh Dịch

Thủy Hỏa Ký Tế: Hợp dã. Hiện hợp. Gặp nhau, cùng nhau, đã xong, việc xong, hiện thực, ích lợi nhỏ. Hanh tiểu giả chi tượng: việc nhỏ thì thành.
Quá là hơn, tài đức có chỗ nào hơn người trong một việc gì đó thì làm nên việc ấy, cho nên sau quẻ Tiểu quá tởi quẻ Kí tế. Tế là vượt qua sông, là nên; kí tế là đã vượt qua, đã nên, đã thành.

Quẻ Ký Tế báo hiệu kết thúc toàn bộ những rối loạn hiểm nguy, thời kỳ thịnh vượng bắt đầu. Quẻ này có các hào âm dương xem lẫn thể hiện sự hợp tác rất tốt, lưu ý khó được bền lâu. Muốn thành công lớn, bền lâu cần giữ gìn cẩn thận, nếu không sẽ sụp đổ.

Hình ảnh quẻ Thủy Hỏa Ký Tế

Thoán từ: Ký tế hanh, tiểu lợi trinh, sơ cát, chung loạn.

Đã xong: Hanh thông, nếu làm nốt các việc nhỏ, cố giữ được những việc đã thành rồi thì mới lợi. Mới đầu tốt, cuối cùng thì loạn (nát bét).

Tượng quẻ: Ngoại quái Khảm, nội quái Ly có nghĩa là nước lửa giao nhau, sau hào đều đắc chính nên mọi việc tất thảy thành công.

Trong thoán từ này, hai chữ "Hanh tiểu", Chu Hi ngờ là "tiểu hanh" mới đúng; tiểu hanh nghĩa là việc nhỏ, được hanh thông. Chúng tôi cho cách hiểu của Phan Bội Châu (theo Thoán truyện) là đúng hơn, nên dịch như trên.
Quẻ này trên là nước, dưới là lửa. Lửa có tính bốc lên mà ở dưới nước , nước thì chảy xuống, thế là nước với lửa giao với nhau, giúp nhau mà thành công. Cũng như nồi nước để ở trên bếp lửa, lửa bốc lên mà nước mới nóng, mới sôi được.
Lại xét sáu hào trong 1: hào dương nào cũng ở vị dương hào âm nào cũng ở vị âm; mà hào nào cũng có ứng viện: 1 dương có 4 âm ứng; 2, âm có 5 dương, ứng; 3, dương , có 6 âm ứng; đâu đó tốt đẹp cả, mọi việc xong xuôi, thế là hanh thông.
Ở vào thời Kí tế, việc lớn đã xong, còn những việc nhỏ cũng phải làm cho xong nữa, thì mới thật là hoàn thành. Hoàn thành rồi lại phải cố giữ được sự nghiệp; nếu không thì chỉ tốt lúc đầu thôi mà rốt cuộc sẽ nát bét. Nghĩa lúc trị phải lo trước tới lúc loạn.
Thoán truyện giảng mới đầu tốt vì hào 2 ở nội quái có đức nhu thuận mà đắc trung; và rốt cuộc sẽ loạn vì ngừng không tiến nữa, không đề phòng nữa (chung chỉ tắc loạn).
Đại Tượng truyện cũng căn dặn phải phòng trước lúc loạn, lúc suy.

2. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế động hào nhất theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

勿嫌兒無唇
疾足追不及
納入猿穴中
走狗何處覓.

Dịch âm:

Vật hiềm nhi vô thần
Tật túc truy bất cập
Nạp nhập viên huyệt trung
Tẩu cẩu

Dịch nghĩa:

hà xứ mịch.Đừng ghét con thiếu môi
Chân què đuổi chẳng kịp
Nếu vào trong hang vượn
Chó biết đâu mà tìm.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Duệ kỳ luân, nhu kỳ vĩ. Vô cữu." (Lúc lội qua dòng nước, dùng tay nhấc cái đai trước bụng, nhưng vạt áo sau vẫn bị thấm ướt. Hào này không có tai họa.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về ở đời có nhiều việc mình không thể quán xuyến hết được. Có những việc lợi tức tuy ít ỏi, nhưng vẫn còn hơn ăn không ngồi rồi. Phàm việc nhỏ thì bền lâu, chớ có xem thường rồi bỏ qua. Người được quẻ này hiện vận trình cũng giống như mẫu ruộng có sẵn, cứ việc ra sức làm việc rồi gặt hái. Hãy cố công, thế nào cũng đạt thành sở nguyện, đại lợi là ở phía Tây.
Quẻ này chủ lợi tuất sinh ra tuy ít ỏi, nhưng vẫn còn hơn ngồi rồi ăn không. Thực ra ví thử vườn ruộng ít ỏi nhưng cố sức chăm nom thì mùa thu về, mùa màng hẳn phong nấm. Ở đời trăm việc nhỏ đến đâu cũng có chỗ an ủi của nó, chớ có cho rằng nhỏ rồi xem thường rồi bỏ lơ qua. Người xin được quẻ này thử nghĩ kỹ xem.
Quẻ thơ nói rằng hiện vận trình của bạn như mẫu ruộng sẵn có, cứ việc hái cắt được mùa chẳng lo hao sức uổng công, nghĩa là bạn đã được hanh thông thời vận, hãy cố công mà, thế nào cũng thành đạt sở nguyện, nhưng đại lợi là phương Tây vì câu kết của thơ quẻ có nói rõ.
Thời lại, vận đến, bạn đã thành tựu, về sau càng thành tựu hơn, nhứt là phương Tây. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 2, 3, 8, 23, 28, 32, 83.