KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 287 - THỦY HỎA KÝ TẾ ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế trong Kinh Dịch

Thủy Hỏa Ký Tế: Hợp dã. Hiện hợp. Gặp nhau, cùng nhau, đã xong, việc xong, hiện thực, ích lợi nhỏ. Hanh tiểu giả chi tượng: việc nhỏ thì thành.
Quá là hơn, tài đức có chỗ nào hơn người trong một việc gì đó thì làm nên việc ấy, cho nên sau quẻ Tiểu quá tởi quẻ Kí tế. Tế là vượt qua sông, là nên; kí tế là đã vượt qua, đã nên, đã thành.

Quẻ Ký Tế báo hiệu kết thúc toàn bộ những rối loạn hiểm nguy, thời kỳ thịnh vượng bắt đầu. Quẻ này có các hào âm dương xem lẫn thể hiện sự hợp tác rất tốt, lưu ý khó được bền lâu. Muốn thành công lớn, bền lâu cần giữ gìn cẩn thận, nếu không sẽ sụp đổ.

Hình ảnh quẻ Thủy Hỏa Ký Tế

Thoán từ: Ký tế hanh, tiểu lợi trinh, sơ cát, chung loạn.

Đã xong: Hanh thông, nếu làm nốt các việc nhỏ, cố giữ được những việc đã thành rồi thì mới lợi. Mới đầu tốt, cuối cùng thì loạn (nát bét).

Tượng quẻ: Ngoại quái Khảm, nội quái Ly có nghĩa là nước lửa giao nhau, sau hào đều đắc chính nên mọi việc tất thảy thành công.

Trong thoán từ này, hai chữ "Hanh tiểu", Chu Hi ngờ là "tiểu hanh" mới đúng; tiểu hanh nghĩa là việc nhỏ, được hanh thông. Chúng tôi cho cách hiểu của Phan Bội Châu (theo Thoán truyện) là đúng hơn, nên dịch như trên.
Quẻ này trên là nước, dưới là lửa. Lửa có tính bốc lên mà ở dưới nước , nước thì chảy xuống, thế là nước với lửa giao với nhau, giúp nhau mà thành công. Cũng như nồi nước để ở trên bếp lửa, lửa bốc lên mà nước mới nóng, mới sôi được.
Lại xét sáu hào trong 1: hào dương nào cũng ở vị dương hào âm nào cũng ở vị âm; mà hào nào cũng có ứng viện: 1 dương có 4 âm ứng; 2, âm có 5 dương, ứng; 3, dương , có 6 âm ứng; đâu đó tốt đẹp cả, mọi việc xong xuôi, thế là hanh thông.
Ở vào thời Kí tế, việc lớn đã xong, còn những việc nhỏ cũng phải làm cho xong nữa, thì mới thật là hoàn thành. Hoàn thành rồi lại phải cố giữ được sự nghiệp; nếu không thì chỉ tốt lúc đầu thôi mà rốt cuộc sẽ nát bét. Nghĩa lúc trị phải lo trước tới lúc loạn.
Thoán truyện giảng mới đầu tốt vì hào 2 ở nội quái có đức nhu thuận mà đắc trung; và rốt cuộc sẽ loạn vì ngừng không tiến nữa, không đề phòng nữa (chung chỉ tắc loạn).
Đại Tượng truyện cũng căn dặn phải phòng trước lúc loạn, lúc suy.

2. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

人不識仙
那有真訣
一入玄門
津津有益.

Dịch âm:

Nhân bất thức tiên
Na hữu chân quyết
Nhất nhập huyền môn
Tân tân hữu ích.

Dịch nghĩa:

Người chẳng biết Tiên
Khi có ấn quyết chân chính
Một lần vào cửa huyền
Bến sông nào cũng có ích.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Đông lân sát ngưu, bất như tây lân chi thược tế, trực thụ kỳ phúc." (Hàng xóm bên Đông cử hành tế lễ long trọng, mà không bằng hàng xóm bên Tây tế lễ đơn sơ.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về điều quan trọng là ơ tấm lòng trung thành. Được vậy thì mưu cầu của bạn ắt sẽ thành đạt, không có khó khăn trở ngại gì. Người mà trng thành hết lòng thì mọi cánh cửa sẽ mở rộng để chào đón, Cầu việc, cầu duyên, cầu tài đều đắc lợi.
Quẻ này chủ đem hết lòng trung thành để phụng sự chủ nhân. Mình trung thành với chủ tất nhiên chủ quý mến mình. Đó bất quá là cái đạo thí ân báo ân đó thôi. Mở rộng cửa nhà lớn để an nghỉ, để đặt tiệc vui vầy, an hưởng cảnh thái bình phú quý.
Sự cầu xin của bạn thành đạt hanh thông không có khó khăn trở ngại và sự cầu xin chẳng những được thuận lợi mà còn đặng nhiều hạnh phúc nữa bởi ý quẻ cho hay bông quỳ đang hướng về mặt trời nở, người lại trung thành hết lòng và mở rộng cánh cửa đón chào ta, nhứt là câu chót nói rõ hưởng lạc thái bình.
Vận thái vô cùng thành đạt, cầu mưu cầu duyên, cầu tài đắc lợi.
Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 2, 7, 20, 27, 70, 72.