KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 288 - THỦY HỎA KÝ TẾ ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế trong Kinh Dịch

Thủy Hỏa Ký Tế: Hợp dã. Hiện hợp. Gặp nhau, cùng nhau, đã xong, việc xong, hiện thực, ích lợi nhỏ. Hanh tiểu giả chi tượng: việc nhỏ thì thành.
Quá là hơn, tài đức có chỗ nào hơn người trong một việc gì đó thì làm nên việc ấy, cho nên sau quẻ Tiểu quá tởi quẻ Kí tế. Tế là vượt qua sông, là nên; kí tế là đã vượt qua, đã nên, đã thành.

Quẻ Ký Tế báo hiệu kết thúc toàn bộ những rối loạn hiểm nguy, thời kỳ thịnh vượng bắt đầu. Quẻ này có các hào âm dương xem lẫn thể hiện sự hợp tác rất tốt, lưu ý khó được bền lâu. Muốn thành công lớn, bền lâu cần giữ gìn cẩn thận, nếu không sẽ sụp đổ.

Hình ảnh quẻ Thủy Hỏa Ký Tế

Thoán từ: Ký tế hanh, tiểu lợi trinh, sơ cát, chung loạn.

Đã xong: Hanh thông, nếu làm nốt các việc nhỏ, cố giữ được những việc đã thành rồi thì mới lợi. Mới đầu tốt, cuối cùng thì loạn (nát bét).

Tượng quẻ: Ngoại quái Khảm, nội quái Ly có nghĩa là nước lửa giao nhau, sau hào đều đắc chính nên mọi việc tất thảy thành công.

Trong thoán từ này, hai chữ "Hanh tiểu", Chu Hi ngờ là "tiểu hanh" mới đúng; tiểu hanh nghĩa là việc nhỏ, được hanh thông. Chúng tôi cho cách hiểu của Phan Bội Châu (theo Thoán truyện) là đúng hơn, nên dịch như trên.
Quẻ này trên là nước, dưới là lửa. Lửa có tính bốc lên mà ở dưới nước , nước thì chảy xuống, thế là nước với lửa giao với nhau, giúp nhau mà thành công. Cũng như nồi nước để ở trên bếp lửa, lửa bốc lên mà nước mới nóng, mới sôi được.
Lại xét sáu hào trong 1: hào dương nào cũng ở vị dương hào âm nào cũng ở vị âm; mà hào nào cũng có ứng viện: 1 dương có 4 âm ứng; 2, âm có 5 dương, ứng; 3, dương , có 6 âm ứng; đâu đó tốt đẹp cả, mọi việc xong xuôi, thế là hanh thông.
Ở vào thời Kí tế, việc lớn đã xong, còn những việc nhỏ cũng phải làm cho xong nữa, thì mới thật là hoàn thành. Hoàn thành rồi lại phải cố giữ được sự nghiệp; nếu không thì chỉ tốt lúc đầu thôi mà rốt cuộc sẽ nát bét. Nghĩa lúc trị phải lo trước tới lúc loạn.
Thoán truyện giảng mới đầu tốt vì hào 2 ở nội quái có đức nhu thuận mà đắc trung; và rốt cuộc sẽ loạn vì ngừng không tiến nữa, không đề phòng nữa (chung chỉ tắc loạn).
Đại Tượng truyện cũng căn dặn phải phòng trước lúc loạn, lúc suy.

2. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

勿謂說話太沈
泥了就不成真
悟出千般奧妙
方識仙道最神.

Dịch âm:

Vật vị thuyết thoại thái trầm
Nê liễu tựu bất thành chân
Ngộ xuất thiên ban áo diệu
Phương thức tiên đạo tối thần.

Dịch nghĩa:

Đừng bảo lời nói quá thâm trầm
Chỉ có bùn thì làm sao thành sự thật
Hiểu được sự ảo diệu của thiên ban
Mới biết rằng đạo Tiên rất "Thần Diệu".

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Nhu kỳ thủ, lệ." (Lội qua dòng nước, cái túi trước ngực bị lướt. Hào này có nguy hiểm.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về do thiếu hiểu biết, cho nên phạm sai lầm. Người được quẻ này nên mau mau tỉnh ngộ. Muốn công việc trôi chảy thì phải rút kinh nghiệm, nghiên cứu cho kỹ lưỡng, ắt sau này sẽ thành công. Cầu tài, cầu việc đều còn chậm.
Quẻ này chủ về trước không biết, cho nên hồ đồ lầm lẩn. Nhưng nay đã rõ hết chuyện, tất nhiên không cho qua một cách dễ dàng. Quẻ này ngụ cái ý là như thế. Người xin được quẻ này nên mau mau tỉnh ngộ.
Công việc làm ăn hay chuyện gì bị trắc trở không vừa ý, là vì người hiểu lý do tại sao nên mới chịu như vậy, đó là hai câu đầu của ý thơ, và hai câu sau nói rằng muốn công việc cầu mưu được trôi chảy thì phải rút kinh nghiệm, nghiên cứu cho kỹ ắt sẽ thành công.
Phải có kinh nghiệm mới mong thành công. Cầu sự còn chậm, chờ. Đánh số được.

Con số linh ứng: 2, 7, 8, 28, 78, 82, 87.