KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 271 - THỦY ĐỊA TỶ ĐỘNG HÀO NHẤT

1. Quẻ Thủy Địa Tỷ trong Kinh Dịch

Thủy Địa Tỷ: Tư dã. Chọn lọc. Thân liền, gạn lọc, mật thiết, tư hữu riêng, trưởng đoàn, trưởng toán, chọn lựa. Khứ xàm nhiệm hiền chi tượng: bỏ nịnh dụng trung.
Sư là đám đông, trong đám đông người ta gần gũi nhau, liên lạc với nhau, cho nên sau quẻ Sư là quẻ Tỉ (tỉ là gần gũi, liên lạc).
Chúng ta để ý: quẻ này Khảm trên, Khôn dưới, ngược hẳn với quẻ trước Khôn trên, khảm dưới.

Tỷ có nghĩa là liền nhau, hay gần nhau. Quẻ toàn hào âm trừ một hào dương làm chủ của quẻ. Hào Chính, Năm lấy tư cách Dương cương ở vị trí giữa quẻ trên mà được chỗ chính. Năm hào âm gần lại tựa như một người vỗ về muôn nước, bốn bề trông lên. Hào Năm Dương cương cũng được hiểu là ở ngôi vua, thân phụ cùng nhau, kẻ trên người dưới cũng thân.

Hình ảnh quẻ Thủy Địa Tỷ

Thoán từ: Tỷ cát, nguyên phệ nguyên, vĩnh, trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung.

Gần gũi thì tốt. Bói lần thứ nhì mà được như lần đầu (nguyên phệ) rất tốt, lâu dài, chính thì không có lỗi.
Kẻ nào ở chỗ chưa yên (hoặc gặp trắc trở) sẽ lại với mình (hoặc mình nên vời lại) l kẻ nào tới sau (trễ) thì xấu.

Tượng quẻ: Trên là Khảm, dưới là Khôn. Nước trên đất nên dễ thấm, sự nước thấm nhuần các hạt đất thành một khối thống nhất.

Quẻ này là trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút lấy nước, cho nên có nghĩa là gần gũi, thân thiết, giúp đỡ nhau.
Lại thêm một hào dương cương, trung chính ( hào 5) thống lĩnh năm hào âm, có cái tượng ông vua (hay người trên) được toàn thể dân (hay người dưới) tin cậy, qui phục do lẽ đó mà gọi là "tỉ". Nhưng hào 5 đó ở địa vị chí tôn nên phải thận trọng, tự xét mình kỹ càng (nguyên phệ) mà thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới thật không có lỗi.
"Bất ninh phương lai", Chu Hi giảng là trên dưới ứng hợp với nhau, chắc là muốn nói hào 5 (trên) và hào 2 (dưới), một dương một âm. Còn ba chữ "hậu phu hung" thì không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào, có lẽ là hào trên cùng chăng?

2. Quẻ Thủy Địa Tỷ động hào nhất theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

禍來見鬼
鬼病淹纏
金羊得路
身脫災殃.

Dịch âm:

Hoạ lai kiến quỉ
Quỉ bệnh yêm triền
Kim dương đắc lộ
Thân thoát tai ương.

Dịch nghĩa:

Họa đến thấy quỉ
Bệnh quỉ triền miên
Dê vàng được đường
Thân thoát tai ương.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Hữu phu, tỷ chi vô cữu; hữu phu doanh phẩu, chung lai hữu tha, cát." (Có điềm ứng đoàn kết giúp đỡ nhau thì không tai vạ; có điềm hãy đựng đầy cái ang, dù cho có tai họa bất ngờ cũng ko sao. Hào này tốt đẹp.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về hiển đạt giàu sang chẳng bằng an nhàn ẩn dật. Người dược quẻ này nên làm những công việc tự do, không bị ràng buộc là tốt nhất. Cố gắng chăm chú làm công việc của mình tuy hơi khổ cực vất vả, song sau cũng sẽ gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp.
Quẻ này ngụ ý: Hiển đạt giàu sang chẳng bằng nơi an nhàn ẩn dật. Người dân thường cày ruộng nuôi sống, chẳng vì áo mão trói buộc an nhàn biết bao! (bất vị ngũ đấu mễ nhi chiết yếu). Người xin được quẻ này nên tìm thú an nhàn ca bài "quy khứ lai từ" là hơn.
Quẻ thơ nói: Cố cày mẫu ruộng, dù là hơi vất vả nhưng được tự do. Không bị ràng buộc và trong đó khoái lạc vô cùng. Nghĩa là nói người cố gắng chăm chú công việc cầu mưu, tuy hơi khổ cực vất vả, song sau cùng sẽ gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp, và vui vẻ cuộc đời.
Vậy những việc cầu xin của người, cần phải cố gắng chịu đựng, nhiều điều vất vả, thì ắt thành đạt sở cầu. Vất vả mới nên công. Cảnh tự do phiêu bồng, cố gắng thì thành đạt sự việc. Đánh số hạp một chút.

Con số linh ứng: 2, 7, 20, 27, 70, 72.