KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 275 - THỦY ĐỊA TỶ ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Thủy Địa Tỷ trong Kinh Dịch

Thủy Địa Tỷ: Tư dã. Chọn lọc. Thân liền, gạn lọc, mật thiết, tư hữu riêng, trưởng đoàn, trưởng toán, chọn lựa. Khứ xàm nhiệm hiền chi tượng: bỏ nịnh dụng trung.
Sư là đám đông, trong đám đông người ta gần gũi nhau, liên lạc với nhau, cho nên sau quẻ Sư là quẻ Tỉ (tỉ là gần gũi, liên lạc).
Chúng ta để ý: quẻ này Khảm trên, Khôn dưới, ngược hẳn với quẻ trước Khôn trên, khảm dưới.

Tỷ có nghĩa là liền nhau, hay gần nhau. Quẻ toàn hào âm trừ một hào dương làm chủ của quẻ. Hào Chính, Năm lấy tư cách Dương cương ở vị trí giữa quẻ trên mà được chỗ chính. Năm hào âm gần lại tựa như một người vỗ về muôn nước, bốn bề trông lên. Hào Năm Dương cương cũng được hiểu là ở ngôi vua, thân phụ cùng nhau, kẻ trên người dưới cũng thân.

Hình ảnh quẻ Thủy Địa Tỷ

Thoán từ: Tỷ cát, nguyên phệ nguyên, vĩnh, trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung.

Gần gũi thì tốt. Bói lần thứ nhì mà được như lần đầu (nguyên phệ) rất tốt, lâu dài, chính thì không có lỗi.
Kẻ nào ở chỗ chưa yên (hoặc gặp trắc trở) sẽ lại với mình (hoặc mình nên vời lại) l kẻ nào tới sau (trễ) thì xấu.

Tượng quẻ: Trên là Khảm, dưới là Khôn. Nước trên đất nên dễ thấm, sự nước thấm nhuần các hạt đất thành một khối thống nhất.

Quẻ này là trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút lấy nước, cho nên có nghĩa là gần gũi, thân thiết, giúp đỡ nhau.
Lại thêm một hào dương cương, trung chính ( hào 5) thống lĩnh năm hào âm, có cái tượng ông vua (hay người trên) được toàn thể dân (hay người dưới) tin cậy, qui phục do lẽ đó mà gọi là "tỉ". Nhưng hào 5 đó ở địa vị chí tôn nên phải thận trọng, tự xét mình kỹ càng (nguyên phệ) mà thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới thật không có lỗi.
"Bất ninh phương lai", Chu Hi giảng là trên dưới ứng hợp với nhau, chắc là muốn nói hào 5 (trên) và hào 2 (dưới), một dương một âm. Còn ba chữ "hậu phu hung" thì không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào, có lẽ là hào trên cùng chăng?

2. Quẻ Thủy Địa Tỷ động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

山山山
山上建茅
不比人間棟宇
卻如天上雲曇.

Dịch âm:

Sơn sơn sơn
Sơn thượng kiến mâu
Bất tỉ nhân gian đống vũ
Khước như thiên thượng vân đàm.

Dịch nghĩa:

Núi núi núi
Trên núi thấy cỏ tranh
Chẳng bì với nhà cửa to lớn của người
Mànhững thứ đó chỉ là mây trùm (mây bủa) trên trời thôi.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Hiền tỷ. Vương dụng tam khu, thất tiền cầm, ấp nhân bất giới. Cát." (Một nhóm người tụ tập. Vua đi săn bắn, họ bao vây ba mặt, cầm thú chạy trốn mà họ cũng không truy đuổi, người dân không hoảng sợ. Hào này tốt đẹp.
Theo ý thơ của Khổng minh, quẻ này chủ về phàm làm việc gì cũng cần phải có đủ trí dũng, có vậy khi lui thì có thể giữ, lúc tiến thì có thể đánh. Người được quẻ này khi lâm sự phải biết lo liệu mới có thể đạt thành. Những mưu cầu của bạn rất là khó khăn, cần phải đem hết tài trí, sức lực mới ra được. Cầu việc còn chậm, cầu tài phải tính toán kỹ lưỡng.
Quẻ này ngụ ý bảo làm việc cần phải trí dũng gồm đủ có thế khi lui về mới có thể giữ, lúc tiến lên mới có thể chiến. Người xin được quẻ này khi lâm sự phải biết e ngại lo liệu mưu tính khôn khéo mọi việc mới có thể thành.
Ý quẻ cho biết rằng những việc cầu xin của bạn rất là khó khăn như đánh một trận giặc mà gặp địch thủ bố trí thật chu toàn, muốn phá trận tuyến đó phải đem hết tận lực binh mã mới may thắng nổi.
Vậy những việc cầu xin của bạn muốn thành đạt như ý nguyện hãy nên có kế hoạch chu toàn và cố gắng không ngừng trong sự cầu mưu thì mới có thể toại lòng.
Việc khó, cố gắng ắt thành công, có kẻ phá hoại thì phải đông xông, tây đột, họa mayŠCầu việc còn chậm, đánh số khó.

Con số linh ứng: 2, 5, 7, 27, 57, 72, 75.