KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 276 - THỦY ĐỊA TỶ ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Thủy Địa Tỷ trong Kinh Dịch

Thủy Địa Tỷ: Tư dã. Chọn lọc. Thân liền, gạn lọc, mật thiết, tư hữu riêng, trưởng đoàn, trưởng toán, chọn lựa. Khứ xàm nhiệm hiền chi tượng: bỏ nịnh dụng trung.
Sư là đám đông, trong đám đông người ta gần gũi nhau, liên lạc với nhau, cho nên sau quẻ Sư là quẻ Tỉ (tỉ là gần gũi, liên lạc).
Chúng ta để ý: quẻ này Khảm trên, Khôn dưới, ngược hẳn với quẻ trước Khôn trên, khảm dưới.

Tỷ có nghĩa là liền nhau, hay gần nhau. Quẻ toàn hào âm trừ một hào dương làm chủ của quẻ. Hào Chính, Năm lấy tư cách Dương cương ở vị trí giữa quẻ trên mà được chỗ chính. Năm hào âm gần lại tựa như một người vỗ về muôn nước, bốn bề trông lên. Hào Năm Dương cương cũng được hiểu là ở ngôi vua, thân phụ cùng nhau, kẻ trên người dưới cũng thân.

Hình ảnh quẻ Thủy Địa Tỷ

Thoán từ: Tỷ cát, nguyên phệ nguyên, vĩnh, trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung.

Gần gũi thì tốt. Bói lần thứ nhì mà được như lần đầu (nguyên phệ) rất tốt, lâu dài, chính thì không có lỗi.
Kẻ nào ở chỗ chưa yên (hoặc gặp trắc trở) sẽ lại với mình (hoặc mình nên vời lại) l kẻ nào tới sau (trễ) thì xấu.

Tượng quẻ: Trên là Khảm, dưới là Khôn. Nước trên đất nên dễ thấm, sự nước thấm nhuần các hạt đất thành một khối thống nhất.

Quẻ này là trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút lấy nước, cho nên có nghĩa là gần gũi, thân thiết, giúp đỡ nhau.
Lại thêm một hào dương cương, trung chính ( hào 5) thống lĩnh năm hào âm, có cái tượng ông vua (hay người trên) được toàn thể dân (hay người dưới) tin cậy, qui phục do lẽ đó mà gọi là "tỉ". Nhưng hào 5 đó ở địa vị chí tôn nên phải thận trọng, tự xét mình kỹ càng (nguyên phệ) mà thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới thật không có lỗi.
"Bất ninh phương lai", Chu Hi giảng là trên dưới ứng hợp với nhau, chắc là muốn nói hào 5 (trên) và hào 2 (dưới), một dương một âm. Còn ba chữ "hậu phu hung" thì không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào, có lẽ là hào trên cùng chăng?

2. Quẻ Thủy Địa Tỷ động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

來去原無定處
時來時去安身
跋涉無慮
榮辱不計.

Dịch âm:

Lai khứ nguyên vô định xứ
Thời lai thời khứ an thân
Bạt thiệp vô lự
Vinh nhục bất kế.

Dịch nghĩa:

Đi lại không nơi nhất định
Giờ đi giờ đến an thân
Lăn lóc không lo
Vinh nhục chẳng màng.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tỷ chi vô thủ. Hung." (Tụ tập ở một nơi mà không thấy ngươi đứng đầu. Hào này hung hiểm.)
Theo ý thơ của Khổng minh, quẻ này chủ về nên sống trong cảnh thanh đạm, mà không nên ham cảnh phồn hoa. Người được quẻ này là bậc quân tử hiền nhân, nên ẩn cư nơi am thanh cảnh vắng, chớ bon chen với người đời mà làm gì. Mưu cầu của bạn không nên quá cao vọng. Cầu danh khó thành, cầu tài đắc lợi nhỏ thôi.
Quẻ này ý bảo: Người bỏ trí thì ta lấy trí, người chọn trọc thì ta chọn thanh. Dành cảm cảnh thanh đạm không ham cảnh phồn hoa. Đấy chính là người xuất thế chân nhân, khác hẳn người thường. Người xin được quẻ này hẳn phải là người quân tử ẩn cư nơi điền viên, nơi am thanh cảnh vắng, không còn nghi ngờ gì nữa.
Ý quẻ rằng việc cầu xin của bạn như leo lên đỉnh núi cất nhà tranh tuy không so nổi với nhà lầu sang trọng, song cũng như vầng mây trên trời chẳng kém phần thanh nhã, cũng đẹp, nghĩa là việc cầu xin hơi vất vả và không được giàu sang cho lắm, nhưng việc sẽ thành và hạnh phúc sẽ tới với người đó.
Hạnh phúc trong sự "tri túc" việc còn dang dở nhưng thành và chỉ đắc lợi nhỏ thôi. Đánh số hạp.

Con số linh ứng: 2, 6, 7, 26, 27, 67, 72, 76.