KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 4 - THIÊN VI CÀN ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Thiên Vi Càn trong Kinh Dịch

Thiên Vi Càn: Kiện dã. Chính yếu. Cứng mạnh, khô, lớn, khỏe mạnh, đức không nghỉ. Nguyên Khang Hanh Lợi Trinh chi tượng: tượng vạn vật có khởi đầu, lớn lên, toại chí, hóa thành.

Bốn đức tính Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh chỉ Càn và Khôn có nên chủ đạo làm điều thiện lớn. Quẻ Thuần Càn có 6 hào đều là hào dương. Hình dung tình trạng cương cường, sáng sủa cực độ. Dù mạnh mẽ nhưng không có tàn bạo, chính nghĩa của đạo Trời muôn vật che chở, giúp đời an dân. Việc nào xứng với việc đó, đều thuận.

Hình ảnh quẻ Thiên Vi Càn

Thoán từ: Càn Nguyên. Hanh. Lợi. Trinh.

Càn (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền.

Tượng quẻ: Quẻ Càn có 6 hào đều là hào dương

Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng.
Về sau, tác giả Thoán truyện (tương truyền là Khổng tử, nhưng không chắc), cho quẻ này một ý nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện, tượng trưng cho trời.
Trời có đức "nguyên" vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức "hanh" vì làm ra mây, mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức "lợi" và "trinh" vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí cho thái hòa (cực hòa) .
Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự.
Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử. Người quân tử có bốn đức: Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người, tức như đức "nguyên" của trời. Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức "hanh" của trời. Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức "lợi" của trời. Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức "trinh" chính và bền – của trời. Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ, nghĩa, trí, (bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia mà ý nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi.
Trở lên trên là cách hiểu của tiên Nho, các nhà Nho chính thống. Còn vài cách hiểu "mới mẻ" hơn của một số học giả gần đây, như phùng Hữu Lan, Tào Thăng, Cao Hanh.

2. Quẻ Thiên Vi Càn động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

春花嬌媚
不禁雨打風飄
秋菊幽芳
反耐霜雪傲.

Dịch âm:

Xuân hoa kiều mị
Bất cấm vũ đả phong phiêu
Thu cúc u phương
Phản nại sương tuyết ngạo.

Dịch nghĩa:

Hoa Xuân yêu kiều
Chẳng cấm mưa tuôn gió cuốn
Hoa cúc mùa Thu có mùi thơm kín đáo
Chịu đựng sương tuyết rơi.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Hoặc dược tại uyên." (Như con rồng vùng vẫy nơi vực sâu.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về người có chí lớn muốn đắc ý phải đợi lúc về già. Hai câu "Hoa mùa xuân rất xinh đẹp, nhưng không cấm được gió dập mưa vùi." là có ý nói cho dù là kẻ tài năng cũng không chịu nổi "gió mưa dập vùi". Hơn nữa, lời quẻ nói người quân tử giống như con rồng đang vùng vẫy ở chố vực sâu, ý nói cuộc đời phong trần lắm gian nan lận đận. Cầu tài nên chờ đợi thời vận chưa tốt lắm.
Quẻ này chủ đại khí vãn thành, người có chí lớn muốn đắc ý phải lúc về già. Ví thử lúc thanh xuân đà đắc ý thì rồi đây cũng như Cam La đời Tần, Vương Bột đời Đường mà thôi. Vũ đã phong nhiêu: gió đạp mưa vùi ý nói gian nan lận đận cuộc đời phong trần như Cam và Vương.
Người cầu được quẻ này, muốn cầu xin việc gì, hãy nên hoãn lại, hãy dò dẫm tiến tới mới hay. Bởi như hoa xuân rất tươi đẹp nhưng đâu chịu nổi mưa đùa gió tạt. Ngược lại hoa cúc tuy sanh trưởng trong mùa thu khí hậu hàn lạnh mà vẫn thơm tươi, chẳng sợ tuyết sương gì cả. Vậy ý quẻ khuyên ta nên chờ thời, đừng nên quá nóng, dù giàu sang hay công danh có muộn mấy đi nữa cũng đừng buồn, vì như hoa Cúc mùa Thu nở muộn mà vẫn thơm tho, hương sắc tốt tươi, chờ đợi là tốt, nhứt là thay đổi chổ ở, nơi làm càng không nên nóng ruột.
Quẻ dạy: Nhẫn nhẫn! Bôn ba chẳng qua thời vận. Công danh tiền bạc như mây nổi giữa trời, hơi nào phải lụy. Khương Tử Nha 80 tuổi mới nên danh, Cam La 12 tuổi đã nên phận, thì đã sao? Cầu tài nên chờ đợi. Chưa tốt lắm.

Con số linh ứng: 4, 14, 24, 34, 40, 44.