KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 34 - THIÊN THỦY TỤNG ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Thiên Thủy Tụng trong Kinh Dịch

Thiên Thủy Tụng: Luận dã. Bất hòa. Bàn cãi, kiện tụng, bàn tính, cãi vã, tranh luận, bàn luận. Đại tiểu bất hòa chi tượng: lớn nhỏ không hòa.
Tự quái truyện đã cho Nhu là ăn uống, cho nên giảng rằng vì (vấn đề) ăn uống mà người ta sinh ra tranh nhau, rồi kiện nhau, cho nên sau quẻ Nhu là quẻ Tụng (có nghĩa là kiện cáo)

Quẻ Tụng có nghĩa là tranh kiện. Nếu như quẻ Nhu là có hiểm nguy ở đằng trước, bậc quân tử đối phó sẽ thắng được thì ở quẻ Tụng nguy hiểm lại ở sau lưng và phe dưới xông lên đe dọa cầm quyền. Quẻ chính là người trên dùng sự cứng để chê kẻ ở dưới, còn kẻ dưới thì dùng sự hiểm để nhòm người trên. Lấy tư cách Dương cương cưỡi lên chỗ hiểm để chiêm quẻ, đại nghiệp ắt có sự tranh biện, lành hay dữ tùy thuộc vào chỗ của họ.

Hình ảnh quẻ Thiên Thủy Tụng

Thoán từ: Tụng, hữu phu chất dịch, trung cát, chung hung, lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.

Kiện cáo vì mình tin thực mà bị oan ức (trất), sinh ra lo sợ (dịch). Nếu giỡ đạo trung (biện bạch được rồi thì thôi) thì tốt lành,nếu kiện cho đến cùng thì xấu. Tìm được bậc đại nhân (công minh) mà nghe theo thì chỉ có lợi, nếu không thì như lội qua sông lớn (nguy), không có lợi.

Tượng quẻ: Quẻ Tụng Càn trên Khảm dưới là sức mạnh của giai cấp trên, có quyền, có thế, có sức mạnh và đè nén giai cấp dưới. Dẫn tới đấu tranh bằng cách tù đầy, biểu tình, tù đầy giai cấp thống trị nên gọi là Tụng.

Theo tượng quẻ này có thể giảng: người trên ( quẻ Càn) là dương cương, áp chế người dưới,mà người dưới ( quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo, hoặc cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì cương cường (ngoại quái là Càn), tất sinh sự gây ra kiện cáo.
Thoán từ của Chu Công không hiểu hai cách đó mà cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực (hữu phu) mà bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho, cho nên lo sợ, phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh oan được rồi thì thôi, thì sẽ tốt, nếu cứ đeo đuổi cho tới cùng, quyết thắng, không chịu thôi, thì sẽ xấu.
Quẻ khuyên người đó nên đi tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 - ứng với hào 2, vừa trung ,chính, vừa ở ngôi cao), mà nghe lời người đó thì có lợi; nếu không thì là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn.
Đại tượng truyện đưa ra một cách giảng khác nữa: Càn (trời) có xu hướng đi lên; Khảm (nước) có xu hướng chảy xuống thấp, như vậy là trái ngược nhau, cũng như hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh ra kiện cáo. Và Đại tượng truyện khuyên người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để tránh kiện cáo.

2. Quẻ Thiên Thủy Tụng động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

缺月又重圓
枯枝色更鮮
一條夷坦路
翹首望青天.

Dịch âm:

Khuyết nguyệt hựu trùng viên
Khô chi sắc cánh tiên
Nhất điều di thản lộ
Kiều thủ vọng thanh thiên.

Dịch nghĩa:

Trăng khuyết nay lại tròn
Cành khô nẩy lộc non
Con đường đi rộng mở
Ngẩng mặt trông trời xanh.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Bất khắc tụng, phụng tức mệnh, du, an trình cát." (Không thắng kiện tụng, trở về theo lệnh, tuy thất bại nhưng yên ổn, tốt lành.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, vận hạn hiện vẫn còn trắc trở, nhưng rốt cuộc sẽ không sao, mọi xui xẻo sắp qua, những mưu cầu của bạn ắt được như ý. Nhất là về thi cử và công danh ắt càng gặp nhiều may mắn. Cầu được ước thấy.
Vận hạn tạm thời vẫn còn kẹt, nhưng rốt cuộc vẫn được đạt phát, cuộc đời xinh đẹp như cây khô gặp được tiết xuân, rừng rậm được khai hoang. Thật là một cảnh buồn gây ngạc nhiên không nhỏ cho mọi người. Song người ta sống ở đời trọng điều nghĩa thì sẻ không lo người không biết đến mình.
Ý quẻ cho biết: Người cầu xin đang đến lúc thịnh, điều xui xẻo đều đã qua, việc sung sướng và hạnh phúc sắp về người, bởi cảnh tình của người, như trăng khuyết lại tròn, cây khô nay lại mọc xanh tươi.
Vậy tất cả sự cầu xin của người ắt được toại nguyện như ý. Nhứt là cầu xin về thi cử và công danh ắt càng gặp nhiều may mắn.
Quẻ dạy: Thời vận hanh thông. Vạn sự như ý sở cầu. Trăng có khi tròn khi khuyết, bèo cũng lúc hợp lúc tan thì người cũng có lúc hẩm, lúc thái, đó là chuyện dĩ nhiên của cuộc đời. Bây giờ là lúc gặp vận thái, lo gì chẳng giàu sang, vinh hiển. Cầu được ước thấy. Đánh số tốt.

Con số linh ứng: 3, 4, 33, 34, 40, 44.