KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 32 - THIÊN THỦY TỤNG ĐỘNG HÀO NHỊ

1. Quẻ Thiên Thủy Tụng trong Kinh Dịch

Thiên Thủy Tụng: Luận dã. Bất hòa. Bàn cãi, kiện tụng, bàn tính, cãi vã, tranh luận, bàn luận. Đại tiểu bất hòa chi tượng: lớn nhỏ không hòa.
Tự quái truyện đã cho Nhu là ăn uống, cho nên giảng rằng vì (vấn đề) ăn uống mà người ta sinh ra tranh nhau, rồi kiện nhau, cho nên sau quẻ Nhu là quẻ Tụng (có nghĩa là kiện cáo)

Quẻ Tụng có nghĩa là tranh kiện. Nếu như quẻ Nhu là có hiểm nguy ở đằng trước, bậc quân tử đối phó sẽ thắng được thì ở quẻ Tụng nguy hiểm lại ở sau lưng và phe dưới xông lên đe dọa cầm quyền. Quẻ chính là người trên dùng sự cứng để chê kẻ ở dưới, còn kẻ dưới thì dùng sự hiểm để nhòm người trên. Lấy tư cách Dương cương cưỡi lên chỗ hiểm để chiêm quẻ, đại nghiệp ắt có sự tranh biện, lành hay dữ tùy thuộc vào chỗ của họ.

Hình ảnh quẻ Thiên Thủy Tụng

Thoán từ: Tụng, hữu phu chất dịch, trung cát, chung hung, lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.

Kiện cáo vì mình tin thực mà bị oan ức (trất), sinh ra lo sợ (dịch). Nếu giỡ đạo trung (biện bạch được rồi thì thôi) thì tốt lành,nếu kiện cho đến cùng thì xấu. Tìm được bậc đại nhân (công minh) mà nghe theo thì chỉ có lợi, nếu không thì như lội qua sông lớn (nguy), không có lợi.

Tượng quẻ: Quẻ Tụng Càn trên Khảm dưới là sức mạnh của giai cấp trên, có quyền, có thế, có sức mạnh và đè nén giai cấp dưới. Dẫn tới đấu tranh bằng cách tù đầy, biểu tình, tù đầy giai cấp thống trị nên gọi là Tụng.

Theo tượng quẻ này có thể giảng: người trên ( quẻ Càn) là dương cương, áp chế người dưới,mà người dưới ( quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo, hoặc cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì cương cường (ngoại quái là Càn), tất sinh sự gây ra kiện cáo.
Thoán từ của Chu Công không hiểu hai cách đó mà cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực (hữu phu) mà bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho, cho nên lo sợ, phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh oan được rồi thì thôi, thì sẽ tốt, nếu cứ đeo đuổi cho tới cùng, quyết thắng, không chịu thôi, thì sẽ xấu.
Quẻ khuyên người đó nên đi tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 - ứng với hào 2, vừa trung ,chính, vừa ở ngôi cao), mà nghe lời người đó thì có lợi; nếu không thì là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn.
Đại tượng truyện đưa ra một cách giảng khác nữa: Càn (trời) có xu hướng đi lên; Khảm (nước) có xu hướng chảy xuống thấp, như vậy là trái ngược nhau, cũng như hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh ra kiện cáo. Và Đại tượng truyện khuyên người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để tránh kiện cáo.

2. Quẻ Thiên Thủy Tụng động hào nhị theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

樂之極憂將至
巽兌分明吉與凶
未能光大終幽暗
日落西山返照中.

Dịch âm:

Lạc chi cực ưu tương chí
Tốn đoài phân minh cát dữ hung
Vị năng quang đại chung u ám
Nhật lạc tây sơn phản chiếu trung.

Dịch nghĩa:

Hết lúc vui đến lúc lo âu
Đông Tây phân rõ tốt với xấu
Chưa có ánh sáng
Còn tối tăm
Mặt trời lặn núi tây còn phản chiếu ánh sáng.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Bất khắc tụng, quy nhi bô, kỳ ấp nhân tam bách hộ vô sinh." (Không thắng kiện tụng, trở về mà trốn, ba trăm nhà trong ấp không bị tai nạn.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, điều kiện thuận lợi đến với chung ta thường không lâu, trái lại, điều không may đến thì ít khi chúng ta thoát khỏi. Người được quẻ này trước thì thuận lợi, về sau lại đen tối, vì vậy phải cẩn thận trong công ăn việc làm, không nên tin người, kinh doanh chỉ nên giữ mức cũ mà đừng khuếch trường. Nhất là về sức khỏe, bệnh tật, bạn cần lưu ý nhiều. Quẻ này cầu tài, cầu danh chẳng ra gì.
Điều kiện thuận lợi tới với ta thường không lâu, trái lại điều hoảnh nghịch ít khi ta thoát khỏi. Trời ở trên là tốt nước ở dưới là hung. Người xin được quẻ này bị cái cảnh nghịch lai mà thuận thụ, bị co mà mong được duổi.
Hiện tại cuộc đời thực có vẻ đen tối nhưng lần về sau cũng sẻ được sáng sủa. Y như cái cảnh mặt trời chiếu ánh vàng trên nền trời thành một lớp ráng vàng tuyệt đẹp.
Người cầu xin được quẻ này, nên phải cẩn thận công ăn việc làm của mình, tiền tài không nên tin người, kinh doanh nên giữ mức cũ mà đừng khuếch trương, nhứt là bệnh tật cần nên lưu ý mới tránh được đau thương đưa đến. Bởi vì toàn thơ của quẻ không có một lời may mắn hay khuyên dạy điều tránh gì cả.
Quẻ dạy: Cẩn thận đề phòng mọi việc "Cực lạc sinh bi" Đó là chuyện thường tình của đời người. Chỉ nên ẩn nhẫn và an phận cho qua lúc bỉ là hay. Cầu tài, cầu danh chẳng ra gì. Đánh số chẳng thông.

Con số linh ứng: 2, 3, 20, 22, 30, 33.