KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 35 - THIÊN THỦY TỤNG ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Thiên Thủy Tụng trong Kinh Dịch

Thiên Thủy Tụng: Luận dã. Bất hòa. Bàn cãi, kiện tụng, bàn tính, cãi vã, tranh luận, bàn luận. Đại tiểu bất hòa chi tượng: lớn nhỏ không hòa.
Tự quái truyện đã cho Nhu là ăn uống, cho nên giảng rằng vì (vấn đề) ăn uống mà người ta sinh ra tranh nhau, rồi kiện nhau, cho nên sau quẻ Nhu là quẻ Tụng (có nghĩa là kiện cáo)

Quẻ Tụng có nghĩa là tranh kiện. Nếu như quẻ Nhu là có hiểm nguy ở đằng trước, bậc quân tử đối phó sẽ thắng được thì ở quẻ Tụng nguy hiểm lại ở sau lưng và phe dưới xông lên đe dọa cầm quyền. Quẻ chính là người trên dùng sự cứng để chê kẻ ở dưới, còn kẻ dưới thì dùng sự hiểm để nhòm người trên. Lấy tư cách Dương cương cưỡi lên chỗ hiểm để chiêm quẻ, đại nghiệp ắt có sự tranh biện, lành hay dữ tùy thuộc vào chỗ của họ.

Hình ảnh quẻ Thiên Thủy Tụng

Thoán từ: Tụng, hữu phu chất dịch, trung cát, chung hung, lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.

Kiện cáo vì mình tin thực mà bị oan ức (trất), sinh ra lo sợ (dịch). Nếu giỡ đạo trung (biện bạch được rồi thì thôi) thì tốt lành,nếu kiện cho đến cùng thì xấu. Tìm được bậc đại nhân (công minh) mà nghe theo thì chỉ có lợi, nếu không thì như lội qua sông lớn (nguy), không có lợi.

Tượng quẻ: Quẻ Tụng Càn trên Khảm dưới là sức mạnh của giai cấp trên, có quyền, có thế, có sức mạnh và đè nén giai cấp dưới. Dẫn tới đấu tranh bằng cách tù đầy, biểu tình, tù đầy giai cấp thống trị nên gọi là Tụng.

Theo tượng quẻ này có thể giảng: người trên ( quẻ Càn) là dương cương, áp chế người dưới,mà người dưới ( quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo, hoặc cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì cương cường (ngoại quái là Càn), tất sinh sự gây ra kiện cáo.
Thoán từ của Chu Công không hiểu hai cách đó mà cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực (hữu phu) mà bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho, cho nên lo sợ, phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh oan được rồi thì thôi, thì sẽ tốt, nếu cứ đeo đuổi cho tới cùng, quyết thắng, không chịu thôi, thì sẽ xấu.
Quẻ khuyên người đó nên đi tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 - ứng với hào 2, vừa trung ,chính, vừa ở ngôi cao), mà nghe lời người đó thì có lợi; nếu không thì là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn.
Đại tượng truyện đưa ra một cách giảng khác nữa: Càn (trời) có xu hướng đi lên; Khảm (nước) có xu hướng chảy xuống thấp, như vậy là trái ngược nhau, cũng như hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh ra kiện cáo. Và Đại tượng truyện khuyên người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để tránh kiện cáo.

2. Quẻ Thiên Thủy Tụng động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

行路難行路難
今日方知行路難
前程廣大何足慮
瓊力今朝度此灘.

Dịch âm:

Hành lộ nan
Hành lộ nan
Kim nhật phương tri hành lộ nan
Tiền trình quảng đại hà túc lự
Quỳnh lực kim triêu độ thử than.

Dịch nghĩa:

Đường đi khó
Đường đi khó
Đến nay mới biết đường đi khó
Tiền trình rộng mở thôi đứng lo
Gắng sức vượt qua khỏi bến đò.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Tụng, nguyên cát." (Kiện tụng, rất tốt lành)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về mọi việc đều bị trở ngại, đình trệ, nhưng nhờ có nghị lực nên mới có ngày vượt qua bờ bên kia. Phàm những việc mưu tính mà thành đạt đều là do người có chí khí. Không đáng lo ở việc đường đi khó, mà chỉ đáng lo là bạn có nhụt chí hay không mà thôi. Quẻ này cầu danh, cầu tài còn chậm.
Quẻ này chủ mọi việc đình trệ, nhưng nhờ có định thức định lực, bạt thiệp san hà nên mới có ngày đáo bỉ ngạn (qua bờ bên kia). Phàm những việc mưu tính đạt được thành đạt đều do ở người có chí. Không thể ngồi phởn ron ăn chơi mà rồi công việc xong được. Đấy là cái nghĩa sâu xa, tế nhị, và quan thiết.
Quẻ dạy: Đường đi tuy khó, nhưng ta cố gắng vượt qua thì muôn sự khó cũng không thể nào cản bước chân ta. Không đáng lo ở sự đường đi khó, mà chỉ đáng lo vì ta bị nhụt chí mà thôi.
Vậy sự cầu xin của người, ắt tránh được điều khó khăn, trắc trở, nhưng cần cố gắng vượt qua, thì sở cầu vẫn được thành công toại nguyện.
Quẻ dạy: Ẫn nhẫn chờ đợi và gắng sức vận thời chưa tới, băn khoăn làm gì? Chỉ nên tích đức, luyện tài chờ thời đến thì mặc sức vẫy vùng. Cầu danh, cầu tài còn chậm. Đánh số chưa thông.

Con số linh ứng: 3, 5, 30, 33, 35, 50, 55.