KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 39 - THIÊN SƠN ĐỘN ĐỘNG HÀO TAM

1. Quẻ Thiên Sơn Độn trong Kinh Dịch

Thiên Sơn Độn: Thoái dã. Ẩn trá. Lui, ẩn khuất, tránh đời, lừa dối, trá hình, có ý trốn tránh, trốn cái mặt thấy cái lưng. Báo ẩn nam sơn chi tượng: tượng con báo ẩn ở núi nam.
Hể ở lâu thì phải rút lui, lánh đi, hết ngày thì tới đêm, hết đông tới xuân, ngồi lâu phải đứng dậy, già rồi nên về hưu .., cho nên sau quẻ Hằng (lâu) tới quẻ động (là trốn lánh đi).

Quẻ Tiểu Quá là thời kỳ làm được việc nhỏ, nếu làm việc lớn sẽ không được. Đây là thời kỳ tương đối an ổn, cần sửa chữa kịp thời lỗi lầm, không nên thay đổi triệt để chính sách sẽ tốt hơn.

Hình ảnh quẻ Thiên Sơn Độn

Thoán từ: Độn hanh, tiểu lợi trinh.

Trốn lánh đi thì hanh thông; trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì có lợi.

Tượng quẻ: Ngoại quái Càn, nội quái Cấn, là sấm sét bị nghẹt lại với núi và không thể nào lan rộng ra được. Hào Nhị, hào Ngũ đắc trung, hào Tam, hào tứ đều thất vị chỉ nên làm việc nhỏ, không làm việc lớn.

Trên là trời, dưới là núi: ở chân núi thì thấy đỉnh núi là trời, nhưng càng lên càng thấy trời lùi lên cao nữa, tới đỉnh núi thấy trời mù mịt tít vời, như trời trốn lánh núi, cho nên đặt tên quẻ là Độn.
Quẻ này hai hào âm ở dưới đẩy bốn hào dương lên trên, có cái tượng âm (tiểu nhân) mạnh lên, đuổi dương (quân tử) đi, trái hẳn với quẻ Lâm. Độn thuộc về tháng 5, Lâm thuộc về tháng 12.
Ở thời Động, âm dương tiến mạnh, dương nên rút lui đi là hợp thời, được hanh thông (có thể hiểu là : đạo quân tử vẫn hanh thông). Tuy nhiên âm mới có 2, dương còn tới 4, chưa phải là thời Bĩ (cả 3 âm đều tiến lên), nên chưa đến nỗi nào, trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì còn có lợi, còn làm được.
Sở dĩ chưa đến nỗi nào, còn hanh thông vì trong quẻ có hào 5, dương, ứng với hào 2, âm; cả hai đều trung chính. Vậy ở thời đó, chưa nên trốn hẳn, nên tính xem việc nào còn làm được thì làm, tùy cơ ứng biến, cho nên Thoán truyện bảo lẽ tùy thời trong quẻ Độn này rất quan trọng.
Đại tượng truyện khuyên trong thời này quân tử nên xa lánh tiểu nhân, cứ giữ vẻ uy nghiêm, đừng dữ dằn với chúng quá.

2. Quẻ Thiên Sơn Độn động hào tam theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

大肆放靈丹
救人行萬千
到頭登彼岸
渡過入仙班.

Dịch âm:

Đại tứ phóng linh đan
Cứu nhân hàng vạn thiên
Đáo đầu đăng bỉ ngạn
Độ quá nhập tiên ban.

Dịch nghĩa:

Ân lớn cấp linh đan
Cứu người đến muôn ngàn
Cuối cùng lên bờ giác
Thẳng hướng đến cõi tiên.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Hệ độn, hữu tật lê, súc thần thiếp. Cát." (Trói con heo mắc phải bệnh lại, giao nó cho bề tôi nuôi dưỡng. Hào này tốt đẹp.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về phổ độ chúng sinh, đưa người qua bờ bên kia, còn mình thì nhập vào cõi tiên. Đã có lòng vị tha mà mưu cầu việc cho người, há có thể bị trầm luân khổ ải sao? Làm việc thiện tự sẽ có thiện báo, không mất đi đâu mà sợ.
Vì vậy, mưu cầu của bạn chỉ nên tính điều phải, và cố làm những chuyện phước đức, thì mới gặp được quý nhân phù trợ. Quẻ này cầu danh, cầu lợi chậm, phải chờ đợi.
Quẻ này chủ đại giác ngộ, có cái nghĩa phổ độ chúng sinh, đưa người tới bờ bên kia, còn mình thì nhập vào làng tiên. Mình đã có lòng vị tha mưu việc cho người há rằng mình lại bị trầm luân ở dưới? Người làm việc thiện tự tiện cho rằng có thiện báo, không mất đi đâu mà sợ.
Ý quẻ dạy: Đạo đức là tất cả, bố đức làm lành cho nhiều ắt được hạnh phúc, thọ trường vì tất cả đều hư không ngoài cái tâm và cái đức thì tại sao người lại không gieo cái nhân tốt trong hiện tại, để hái cái quả lành về sau?
Vậy sự cầu của người nên tính mưu điều phải, và phải cố làm những điều phước đức, thì việc mưu cầu mới gặp được quý nhân giúp đỡ mà nên sự.
Quẻ dạy: Bố đức, làm lành thì tốt mọi việc sở cầu trong tương lai, ắt có kết quả viên mãn. Cầu danh, cầu lợi chậm, cần chờ đợi, đánh số hạp vừa phải.

Con số linh ứng: 3, 9, 30, 33, 39, 90, 99.