KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 28 - THIÊN PHONG CẤU ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Thiên Phong Cấu trong Kinh Dịch

Thiên Phong Cấu: Ngộ dã. Tương ngộ. Gặp gỡ, cấu kết, liên kết, kết hợp, móc nối, mềm gặp cứng. Phong vân bất trắc chi tượng: gặp gỡ thình lình, ít khi.
Lời giảng của Tự quái truyện rất ép: Quải là quyết, phán quyết; phán quyết xong rồi thì biết được lành hay dữ, tất có người để gặp gỡ, cho nên sau quẻ Quải tới quẻ Cấn (gặp gở).

Quẻ Cấu có sức cương cường của Càn, đối phó với sự xâm nhập của tốn nên quẻ này cần thắt chặt, diệt trừ hiểm họa khi nó mới chớm nở. Trung chính, cương quyết khi nó đang phát triển. Tuy nhiên không nên quá hẹp hòi, thiếu suy xét đề phòng đúng mức, đúng thời điểm.

Hình ảnh quẻ Thiên Phong Cấu

Thoán từ: Cấu, nữ tráng, vật dụng thú nữ.

Gặp gỡ: Con gái cường tráng, đừng cưới nó (cũng có nghĩa là tiểu nhân đương lúc rất mạnh, đừng thân với nó).

Tượng quẻ: Ngoại quái Càn, nội quái Tốn, gió thổi dưới bầu trời nên đi tới đâu sẽ đụng tới đó. Hào âm dưới cùng những tưởng âm khí tiêu tan nhưng hào âm dưới cùng xuất hiện đội năm hào dương bên trên.

Trời (Càn) ở trên, gió (Tốn) ở dưới, gió đi dưới trời, tất đụng chạm vạn vật, cho nên gọi là Cấu (gặp gỡ).
Quẻ này một hào âm mới sinh ở dưới (thuộc về tháng 5), đụng với 5 hào dương ở trên, cũng như một người con gái rất cường tráng, đụng với (Cấn) năm người con trái, chống được với 5 người còn trai, hào đó lại bất đắc chính (âm ở vị dương), như người con gái bất trinh, không nên cưới nó.
Thoán truyện đưa thêm một nghĩa khác, trái hẳn, tương truyền là của Khổng tử; một hào âm xuất hiện ở dưới năm hào dương, là âm dương bắt đầu hội ngộ (gặp nhau: cấu), vạn vật nhờ đó sinh trưởng, các phẩm vật đều rực rỡ. Tốt. Lại thêm hào 5 dương cương , trung chính, thế là đạo quân tử được thi hành khắp thiên hạ (cương ngộ trung chính, thiên hạ đại hành dã). Cho nên ý nghĩa chữ "Cấu" này thật lớn lao. Đại tượng truyện chỉ coi tượng quẻ, không để ý tới nghĩa gặp gỡ của quẻ, mà đưa ra lời khuyên người quân tử nên thi hành mệnh lệnh, báo cáo, hiểu dụ khắp bốn phương, như gió thổi vào khắp vạn vật ở dưới trời.

2. Quẻ Thiên Phong Cấu động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

駢馬交馳
男兒得志
時行程早辦
勞歸樂期.

Dịch âm:

Biền mã giao trì
Nam nhi đắc chí. thời hành trình tảo biện
Lao qui lạc kỳ.

Dịch nghĩa:

Đôi ngựa vượt đường xa
Nam nhi đắc chí mà
Hành trình nên liệu gấp
Sung sướng trở về nhà.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Bao vô ngư. Khởi hung." (Trong nhà bếp không có cá, Khởi đầu có hung hiểm.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về thời vận tốt sắp đến. Phải hành động ngay chớ có để mất thời cơ. Nhất là mưu cầu công danh, thi cử. Nếu về kinh doanh, gia đạo, hôn nhân, v.v... cũng đều được vừa ý, không có gì đáng ngại. Cầu được ước thấy, mọi điều đều thông. Cầu danh, cầu lợi đều toại nguyện, tuy lúc đầu hơi gian nan.
Quẻ này cho biết thời đã tới vận đã sang. Ta hãy nghe tiếng gà gáy dòn là phải dậy ngay chớ có ngồi rốn mà hết thời cơ. Rồi một ngày mai áo gấm về làng hưởng phúc mãi tới già lúc đó mới biết cái thời giờ quyết định đó là quan trọng.
Người cầu được quẻ này thì tốt lắm. Nhứt là cầu xin về việc công danh, thi cử. Nếu cầu về kinh doanh, gia đạo, hôn nhân v.v... cũng đều được xứng ý, không gì đáng ngại.
Quẻ dạy rằng: Đang tính việc gì thì nên cấp tốc thực hành đừng để trễ nữa. Cuộc đời đang bắt đầu lên hương với cảnh vàng son, hoa mộng đẹp đẽ lắm rồi.
Quẻ dạy: Tốt đẹp lắm. Quẻ khuyên chớ chần chờ. Tiến tới ắt kết quả đạt thành. Cầu được ước thấy. Vạn sự đều thông, cầu danh, cầu lợi đều thông suốt. Đánh số càng hạp.

Con số linh ứng: 2, 8, 20, 22, 80, 88.