KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 29 - THIÊN PHONG CẤU ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Thiên Phong Cấu trong Kinh Dịch

Thiên Phong Cấu: Ngộ dã. Tương ngộ. Gặp gỡ, cấu kết, liên kết, kết hợp, móc nối, mềm gặp cứng. Phong vân bất trắc chi tượng: gặp gỡ thình lình, ít khi.
Lời giảng của Tự quái truyện rất ép: Quải là quyết, phán quyết; phán quyết xong rồi thì biết được lành hay dữ, tất có người để gặp gỡ, cho nên sau quẻ Quải tới quẻ Cấn (gặp gở).

Quẻ Cấu có sức cương cường của Càn, đối phó với sự xâm nhập của tốn nên quẻ này cần thắt chặt, diệt trừ hiểm họa khi nó mới chớm nở. Trung chính, cương quyết khi nó đang phát triển. Tuy nhiên không nên quá hẹp hòi, thiếu suy xét đề phòng đúng mức, đúng thời điểm.

Hình ảnh quẻ Thiên Phong Cấu

Thoán từ: Cấu, nữ tráng, vật dụng thú nữ.

Gặp gỡ: Con gái cường tráng, đừng cưới nó (cũng có nghĩa là tiểu nhân đương lúc rất mạnh, đừng thân với nó).

Tượng quẻ: Ngoại quái Càn, nội quái Tốn, gió thổi dưới bầu trời nên đi tới đâu sẽ đụng tới đó. Hào âm dưới cùng những tưởng âm khí tiêu tan nhưng hào âm dưới cùng xuất hiện đội năm hào dương bên trên.

Trời (Càn) ở trên, gió (Tốn) ở dưới, gió đi dưới trời, tất đụng chạm vạn vật, cho nên gọi là Cấu (gặp gỡ).
Quẻ này một hào âm mới sinh ở dưới (thuộc về tháng 5), đụng với 5 hào dương ở trên, cũng như một người con gái rất cường tráng, đụng với (Cấn) năm người con trái, chống được với 5 người còn trai, hào đó lại bất đắc chính (âm ở vị dương), như người con gái bất trinh, không nên cưới nó.
Thoán truyện đưa thêm một nghĩa khác, trái hẳn, tương truyền là của Khổng tử; một hào âm xuất hiện ở dưới năm hào dương, là âm dương bắt đầu hội ngộ (gặp nhau: cấu), vạn vật nhờ đó sinh trưởng, các phẩm vật đều rực rỡ. Tốt. Lại thêm hào 5 dương cương , trung chính, thế là đạo quân tử được thi hành khắp thiên hạ (cương ngộ trung chính, thiên hạ đại hành dã). Cho nên ý nghĩa chữ "Cấu" này thật lớn lao. Đại tượng truyện chỉ coi tượng quẻ, không để ý tới nghĩa gặp gỡ của quẻ, mà đưa ra lời khuyên người quân tử nên thi hành mệnh lệnh, báo cáo, hiểu dụ khắp bốn phương, như gió thổi vào khắp vạn vật ở dưới trời.

2. Quẻ Thiên Phong Cấu động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

了卻心頭事
三生夙有緣
香開十裏桂
移步入天邊.

Dịch âm:

Liễu khước tâm đầu sự
Tam sinh túc hữu duyên
Hương khai thập lý quế
Di bộ nhập thiên biên.

Dịch nghĩa:

May gặp người tâm đầu
Là duyên ba sinh đó
Mười dặm thơm hương quế
Bay xa về muôn chỗ.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Dĩ kỷ qua bao. Hàm chương, hữ bẫn tự thiên." (Dùng mạ bao bọc trái bầu. Lúc khúc nhạc diễn tấu xong từ trên trời vọng xuống âm thanh rộn rã.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về vì mình cũng chính là vì người, mọi mưu cầu của bạn sẽ được toại nguyện trong tương lai gần. Nhất là cầu xin về hôn nhân thì càng đẹp. Cầu về gia đạo, kinh doanh, tiền tài, . v.v... đều gặp được may mắn và yên lành. Mọi sự hanh thông, cầu danh, cầu lợi đều được.
Quẻ này chủ vì mình mà chính là vì người, cho nên khi đặc thân lên cõi trên, cõi trời mây cao rộng khiến hương thơm bay đi xa hàng mười dặm, phải chăng là đã có túc duyên hương lửa và tự được hưởng cái công quả của chính mình. Người xin được quẻ này càng cần phải làm sao cho lợi ít nhiều hơn nữa, mong đáp lại lòng trời.
Ý quẻ cho biết, tất cả sự cầu xin của bạn sẽ được toại nguyện trong tương lai gần đây. Nhứt là cầu xin về hôn nhân thì càng tốt đẹp hạnh phúc vô cùng.
Cầu xin về những việc như công danh, gia đạo, kinh doanh, tiền tài, bịnh tật... đều gặp được may mắn và yên lành. Chẳng có gì lo ngại.
Quẻ dạy: Gặp thời cây sắt trổ bông, tốt đẹp vô cùng. Vạn sự như ý sở cầu. Mọi sự hanh thông. Thuận chèo mát mái. Cầu danh, cầu lợi đều thành đạt. Đánh số thuận lợi.

Con số linh ứng: 2, 9, 20, 22, 29, 90, 99.