KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 20 - THIÊN LÔI VÔ VỌNG ĐỘNG HÀO NHỊ
1. Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng trong Kinh Dịch
Thiên Lôi Vô Vọng: Thiên tai dã. Xâm lấn. Tai vạ, lỗi bậy bạ, không lề lối, không quy củ, càn đại, chống đối, hứng chịu. Cương tự ngoại lai chi tượng: tượng kẻ mạnh từ ngoài đến.
Đã trở lại thiên lý, chính đạo rồi thì không làm càn nữa, cho nên sau quẻ Phục, tới quẻ Vô vọng. Vọng có nghĩa là càn, bậy.
Quẻ Vô Vọng chỉ thời kỳ đã ổn định rồi thì không nên cải cách mà nên làm theo luật cũ để hưởng thụ. Tuy nhiên giai đoạn này ở một thời gian mà thôi. Cho nên tùy thời mà cần có thái độ khác nhau.
Hình ảnh quẻ Thiên Lôi Vô Vọng
Thoán từ: Vô vọng nguyên hanh, lợi trinh, kỳ phỉ chính, hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng.
Không càn bậy thì rất hanh thông, hợp với chính đạo thì có lợi. Cái gì không hợp với chính đạo thì có hại, có lỗi, hành động thì không có lợi.
Tượng quẻ: Ngoại quái Càn, nội quái Chấn có nghĩa hoạt động hợp với lẽ trời. Hào Sơ Cửu làm chủ của nội quán, thu phục lòng người bằng hào Lục Nhị ứng với hào Cửu Ngũ theo đạo trời.
Tượng quẻ này: nội quái là Chấn (nghĩa là động, hành động); ngoại quái là Càn (trời), hành động mà hợp với lẽ trời thì không càn bậy, không càn bậy thì hanh thông, có lợi.
Thoán truyện giảng rõ thêm:
Nội quái nguyên là quẻ Khôn, mà hào 1, âm biến thành dương, thành quẻ Chấn. Thế là dương ở ngoài tới làm chủ nội quái, mà cũng làm chủ cả quẻ vô vọng, vì ý chính trong Vô vọng là: động, hành động. Động mà cương kiên như ngoại quái Càn, tức là không càn bậy.
Xét về các hào thì hào 5 dương cương, trung chính ứng, ứng với hào 2 cũng trung chính, thế là hợp với thiên lý, rất hanh thông.
Ở thời Vô vọng (không càn bậy) mình không giữ chính đạo mà đi thì đi đâu được? Chữ đi (vãng) ở đây nghĩa rộng là hành động (nguyên văn: Vô vọng chi vãng, hà chi hĩ? Nên hiểu là : vô vọng: phỉ chính chi vãng, hà chi hĩ; chữ chi thứ nhì này có nghĩa là đi). Trái lẽ trời thì trời không giúp, làm sao đi được ?
Đại tượng truyện bàn thêm về cái đạo của trời (đất) là nuôi nấng, và thánh nhân cũng theo đạo đó mà nuôi nấng vạn dân. Chúng tôi cho là ra ngoài đề.
2. Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng động hào nhị theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
桃李謝春風
西飛又複東
家中無意緒
船在浪濤中.
Dịch âm:
Đào lý tạ xuân phong
Tây phi hựu phức đông
Gia trung vô ý tự
Thuyền tại lãng đào trung.
Dịch nghĩa:
Đào lý cợt gió Xuân
Bay Tây lại về Đông
Trong nhà không manh mối
Thuyền bơi giữa ba đào.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng." (Không canh tác mà muốn thu hoạch, không khai khẩn mà muốn có ruộng, thì nên đi đâu đó.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này xem sự nghiệp là bất lợi, xem bệnh tật là khó định, xem hôn nhân là không có hy vọng, xem đi xa thì sẽ bị ngăn trở, xem kiện tụng thì lành ít dữ nhiều, đây là tượng thăng trầm trôi nổi vô định, không tốt đẹp gì. Người được quẻ này phải hết sức tu dưỡng mới được. Cần phải cẩn thận trong công ăn việc làm. Những mưu cầu khó thành tựu, nên chờ dịp thuận lợi rồi hãy hành động. Cầu tài, cầu việc đều không thông.
Quẻ này bói sự nghiệp bất lợi, bói bệnh tật bất định, bói hôn nhân vô hy vọng, bói ra đi bị ngăn trở, bói kiện tụng lành ít dữ nhiều, đó là cái tượng thăng trầm thôi nổi, không tốt đẹp thanh thản gì. Người xin quẻ này phải hết sức tu chính mới được.
Người cầu xin được quẻ này, nên phải cẩn thận công ăn việc làm. Và khó thành đạt toại nguyện trong những việc cầu mưu. Bởi hoàn cảnh thời vận của bạn hiện đang như cây lý chào biệt gió xuân, như chiếc thuyền đang gặp sóng gió. Vậy đã cho ta thấy rằng còn gì gọi là may mắn!
Hơn nữa thơ quẻ còn tả cảnh người thêm rằng: Trong nhà không chủ trương, bay chạy đông tây. Đó là ý nói người sầu buồn và vất vả vô cùng vậy.
Quẻ dạy: Chớ tính toán vô ích thời chưa đến thì dù cho tài mấy, cũng như cá mắc cạn. "Bôn Ba Chẳng Qua Thời Vận". Suy cho kỹ, nghĩ cho cùng, chờ dịp thuận lợi hãy hay. Cầu tài, cầu mưu đều bất thông. Không mấy hạp cho việc tính chuyện may rủi. Vì quẻ quá xấu.
Con số linh ứng: 2, 12, 20, 22, 32.