KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 18 - THIÊN HỎA ĐỒNG NHÂN ĐỘNG HÀO LỤC

1. Quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân trong Kinh Dịch

Thiên Hỏa Đồng Nhân: Thân dã. Thân thiện. Trên dưới cùng lòng, cùng người ưa thích, cùng một bọn người. Hiệp lực đồng tâm chi tượng: tượng cùng người hiệp lực.
Kiến giải của người Việt: Con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt.
Không thể bế tắc, cách tuyệt nhau mãi được, tất phải có lúc giao thông hòa hợp với nhau; cho nên sau quẻ Bĩ tới quẻ Đồng Nhân.
Đồng nhân là cùng chung với người, đồng tâm với người.

Quẻ Đồng Nhân có năm hào dương và một hào âm. Hào âm này làm quẻ chủ. Hào Lục Nhị thuộc nội quái Ly (sáng sủa). Quẻ là văn minh, là trí tuệ, là soi sáng xã hội nên làm việc gì cũng dễ thành công. Đồng Nhân còn là quẻ đoàn kết, không vị kỷ, đặt quyền lợi chung lên trên quyền lợi cá nhân nên mở rộng khối đoàn kết được rộng khắp và vững chắc hơn.

Hình ảnh quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân

Thoán từ: Đồng nhân vu dã, hanh, lợi thiệp đại xuyên; lợi quân tử trinh.

Cùng với người ở cánh đồng (mênh mông) thì hanh thông. (gian hiểm như) Lội qua sông lớn, cũng lợi. Quẻ này lợi cho người quân tử trung chính.

Tượng quẻ: Trên là Càn, dưới là Ly. Ngoại quá là dũng dược, nội quái là sáng sủa, có nghĩa là lửa chiếu ánh sáng tới tận trời cao, có khả năng soi sáng khắp thế gian. Dù xa đến đâu thì hết thảy đều được Hanh.

Ly ở dưới là lửa, sáng, văn mình, Càn ở trên là Trời. Quẻ này có tượng lửa bốc lên cao tới trời, cũng soi khắp thế giới (cánh đồng mênh mông có nghĩa đó). Cho nên tốt. dù có hiểm trở gì, cũng vượt được (Phan Bội Châu bảo đó "chính là cảnh tương đại đồng rất vui vẻ") Muốn vậy phải có được trung chính của người quân tử .
Thoán truyện cùng hào 2 ở nội quái ly, hào âm độc nhất, quan trọng nhất trong 6 hào mà giảng thêm:
Hào đó âm nhu đắc vị (tức là chính) đắc trung, lại ứng hợp với hào 5 dương cương cũng đắc vị đắc trung trong ngọai quái Càn, thế là có hiện tượng nội ngọai tương đồng, nên gọi là đồng nhân. Văn minh (Ly) ở phía trong, cương kiện (Càn) tức dụng ở ngoài, mà được cả trung lẫn chính, ứng hợp với nhau, đó là tượng người quân tử thông suốt được tâm tri của thiên hạ.
Đại tượng truyện bàn thêm: Người ta muốn thực hiện được cảnh tượng mọi vật cùng sống chung với nhau thì phải phân biệt từng loại của các chủng tộc, xét kỹ mỗi sự vật (quân tử dĩ loại tộc, biện vật); hễ cùng loại thì đặt chung với nhau và cho mỗi vật được phát triển sở năng, thỏa được sở nguyện, có vậy thì tuy bất đồng mà hòa đồng được.

2. Quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân động hào lục theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

心戚戚
口啾啾
一番思慮一番憂
說了休時又不休.

Dịch âm:

Tâm thích thích
Khẩu thu thu
Nhất phiên tư lự nhất phiên ưu
Thuyết liễu hưu thời hựu bất hưu.

Dịch nghĩa:

Lòng bứt rứt
Miệng rầu rầu
Một phen nghĩ đến
Một phen lo
Đã bảo ngưng mà chẳng chịu ngưng.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Đồng nhân vu giao, vô hối." (Tụ họp nhiều người ngoài, sẽ không khốn cùng.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về vừa lo được, vừa lo mất. Người được quẻ này, hiện tâm tình rất lo âu về việc đang mưu tính. Bởi sự tình quá rắc rối nên rất buồn lòng quẫn trí. Mọi sự mưu tính đều hỏng, nhưng dù sao bạn cũng phải bình tĩnh, cố gắng tìm mọi cách thoát khỏi cơn hoạn nạn. nên đi xa thì các chuyện rắc rối mới dừng lại được. Cầu danh, cầu lợi đều còn rất xa.
Quẻ này chủ vừa lo được vừa lo mất, chẳng khác gì con ngựa con quyến luyến giàn đậu non, chẳng có hành động quả quyết, cho nên uổng phí cả tâm trường, chỉ mua lấy phiền não mà thôi.
Theo quẻ thơ cho biết, người cầu xin được quẻ này, hiện tâm tình rất lo âu cho việc đang mưu tính vô cùng. Bởi công việc quá rắc rối, nên rất buồn lòng phẫn trí. Vì vậy, người xin được quẻ này mà sự cầu mong hiện đang lưng chừng và hơi khó thành. Nhưng riêng tôi lại khuyên người rằng "Thế gian vô nan sự, chỉ sợ chí không kiên".
Quẻ dạy: Xấu. Mọi sự tính toán đều hư hỏng, chỉ nên chờ đợi. Tuy nhiên, dù sao ta cũng phải cố gắng tính toan chứ không phải làm như Đại Lản chờ sung "Có chí thì nên". Cầu danh, cầu lợi còn xa. Tính chuyện rủi may không hạp mấy.

Con số linh ứng: 8, 11, 18, 88.