KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 46 - THIÊN ĐỊA BĨ ĐỘNG HÀO TỨ
1. Quẻ Thiên Địa Bĩ trong Kinh Dịch
Thiên Địa Bĩ: Tắc dã. Gián cách. Bế tắc, không thông, không tương cảm nhau, xui xẻo, dèm pha, chê bai lẫn nhau, mạnh ai nấy theo ý riêng. Thượng hạ tiếm loạn chi tượng: trên dưới lôi thôi.
Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ.
Thoán tử.
Bĩ là bế tắc nhưng khi Bĩ giai đoạn đầu còn thịnh thì nên giữ bế tắc, không chen lấn về sau khi Bĩ suy sẽ hạn chế được bế tắc.
Quẻ Bĩ là quẻ mang điềm xấu, tuy vậy không nên bi quan, bởi những điều xấu đang chuẩn bị chấm dứt. Nên tùy vào thời điểm mà thay đổi cách hành động sao cho phù hợp, tránh việc đời, kiên trì với chính đạo, sống bao dung, khiêm nhường và hăng hái làm việc cho đời.
Hình ảnh quẻ Thiên Địa Bĩ
Thoán từ: Bĩ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.
Bĩ không phải đạo người (phi nhân nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không lợi cho đạo chính của quân tử (Tượng của nó là) cái lớn (dương ) đi mà cái nhỏ (âm) lại.
Tượng quẻ: Tượng quẻ của quẻ Bĩ có tượng quẻ ngược lại với quẻ Thái. Ngoại quái Càn trên, nội quái Khôn dưới. Tượng trưng cho khí Dương đang đi lên, khí Âm đang đi xuống, vạn vật bị ngưng trệ, không gian không thể giao hòa.
Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi lên, âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên.
Đại tượng truyện – Khuyên: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn.
Gặp thời Truân, thời khó khăn, gian truân, người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn thời đã bĩ, đã bế tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi.
2. Quẻ Thiên Địa Bĩ động hào tứ theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
奔波一世
總是虛浮
無常一到萬事休
急早回頭.
Dịch âm:
Bôn ba nhất thế
Tổng thị hư phù
Vô thường nhất đáo vạn sự hưu
Cấp tảo hồi đầu.
Dịch nghĩa:
Một đời bôn ba
Cũng chẳng được gì
Một phen vô thường đến
Mọi việc thảy đều dừng
Mau gấp quay đầu.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Hữu mệnh, vô cữu, thọ ly chỉ." (Có lệnh xuống, nhưng không tai vạ, được sống thọ.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, người được quẻ này hãy mau mau tỉnh ngộ. và hãy đề phòng cẩn thận, chớ có sơ ý mới có thể tránh được những điều không hay. Vì trong lời thơ nói rất rõ ràng, không câu nào tốt cả, mọi mưu cầu nên dè dặt thận trọng. Đề phòng người xung quanh. Quẻ này cầu tài, cầu danh đều chậm.
Nhất âm nhất trác phải chăng do tiền định? Vì con cháu mà phải làm thân trâu ngựa, thì chi bằng trồng cây phúc được quả phúc, mong làm đẹp cho hậu thế mai sau. Người xin được quẻ này phải nên mau mau tỉnh ngộ.
Người cầu xin được quẻ này, hãy đề phòng cẩn thận, chớ nên sơ ý mới có thể tránh được những điều không hay đưa đến.
Bởi vì trong những lời của quẻ, nói rất rõ ràng, không câu nào may mắn tốt đẹp cả, mọi sự cầu xin nên phải dè dặt thận trọng và dò dẫm từng bước, đừng nên vội vã có hại.
Quẻ dạy: Ẫn nhẫn và yên phận thủ thường. Đề phòng mọi người xung quanh và chớ tính chuyện trái đạo, trái lòng, ắt bị nhân quả xấu. Cuộc đời chưa ra gì nên chờ thời cơ. Cầu tài, cầu danh đều chậm. Tính chuyện đen đỏ dở.
Con số linh ứng: 4, 6, 40, 44, 46, 66.