KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 45 - THIÊN ĐỊA BĨ ĐỘNG HÀO TAM
1. Quẻ Thiên Địa Bĩ trong Kinh Dịch
Thiên Địa Bĩ: Tắc dã. Gián cách. Bế tắc, không thông, không tương cảm nhau, xui xẻo, dèm pha, chê bai lẫn nhau, mạnh ai nấy theo ý riêng. Thượng hạ tiếm loạn chi tượng: trên dưới lôi thôi.
Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ.
Thoán tử.
Bĩ là bế tắc nhưng khi Bĩ giai đoạn đầu còn thịnh thì nên giữ bế tắc, không chen lấn về sau khi Bĩ suy sẽ hạn chế được bế tắc.
Quẻ Bĩ là quẻ mang điềm xấu, tuy vậy không nên bi quan, bởi những điều xấu đang chuẩn bị chấm dứt. Nên tùy vào thời điểm mà thay đổi cách hành động sao cho phù hợp, tránh việc đời, kiên trì với chính đạo, sống bao dung, khiêm nhường và hăng hái làm việc cho đời.
Hình ảnh quẻ Thiên Địa Bĩ
Thoán từ: Bĩ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.
Bĩ không phải đạo người (phi nhân nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không lợi cho đạo chính của quân tử (Tượng của nó là) cái lớn (dương ) đi mà cái nhỏ (âm) lại.
Tượng quẻ: Tượng quẻ của quẻ Bĩ có tượng quẻ ngược lại với quẻ Thái. Ngoại quái Càn trên, nội quái Khôn dưới. Tượng trưng cho khí Dương đang đi lên, khí Âm đang đi xuống, vạn vật bị ngưng trệ, không gian không thể giao hòa.
Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi lên, âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên.
Đại tượng truyện – Khuyên: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn.
Gặp thời Truân, thời khó khăn, gian truân, người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn thời đã bĩ, đã bế tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi.
2. Quẻ Thiên Địa Bĩ động hào tam theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
不用忙
不用慌
自有駐足鄉
鳴鼓響鐘地
三寶見門牆.
Dịch âm:
Bất dụng mang
Bất dụng hoang
Tự hữu trú túc hương
Minh cổ hưởng chung địa
Tam bảo kiến môn tường.
Dịch nghĩa:
Đừng hoang mang
Chớ lo sợ
Hữu duyên vững thế rõ như in
Khua chuông gióng trống thần linh chứng
Cửa Phật không xa tất hiện hình.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Bao tu." (Gói thịt chín lại.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, làm bất cứ việc gì cũng cần phải hết sức thực tế, kỹ lưỡng. Chớ nên kiêu hãnh làm liều, có vậy thì mới có thể lập nghiệp. Mọi mưu cầu bạn cứ tiến hành, nhưng phải từ từ. Chớ nên quá vội cưỡng cầu mà hỏng việc. Quẻ nói thời sắp đến nơi, chớ vội. Nếu thời chưa đến thì bôn ba mấy cũng chẳng ra gì. Cầu tài, cầu danh sắp thành.
Hành động bất cứ một việc gì cần phải hết sức thực tế, chớ nên kiêu hãnh làm liều, có thế thì mới có thể an tâm lập nghiệp.
Ý quẻ thơ nói rằng: "Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất lai cưỡng cầu". Nghĩa là vội vàng làm chi, tất cả của cải ngoài thân mình của ta, số phận ắt phải có, nếu không dù tính toán mưu kế đến đâu cũng là số không. Cho nên hay hơn là cầu khẩn Thần Phật, tu tâm dưỡng tánh, như hai câu sau của quẻ thơ đã chỉ ra.
Như vậy, những việc cầu xin của người cứ tiến hành, nhưng phải cho công việc từ từ. Chớ nên quá vội và cưỡng cầu mà hỏng, nhứt là việc cầu mưu hãy theo đường đứng đắn, đừng tính chuyện tà đạo.
Quẻ dạy: Thời sắp đến nơi, chớ vội mà chi. Thời chưa đến thì bôn ba mấy cũng chẳng ra gì, Đời sắp lên hương lo gì. Chỗ bôn chôn sắp đến huy hoàng, sán lạng. Cầu tài, cầu danh sắp đạt thành, đánh số gặp may.
Con số linh ứng: 4, 5, 40, 44, 45, 50, 54, 55.