KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 43 - THIÊN ĐỊA BĨ ĐỘNG HÀO NHẤT
1. Quẻ Thiên Địa Bĩ trong Kinh Dịch
Thiên Địa Bĩ: Tắc dã. Gián cách. Bế tắc, không thông, không tương cảm nhau, xui xẻo, dèm pha, chê bai lẫn nhau, mạnh ai nấy theo ý riêng. Thượng hạ tiếm loạn chi tượng: trên dưới lôi thôi.
Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ.
Thoán tử.
Bĩ là bế tắc nhưng khi Bĩ giai đoạn đầu còn thịnh thì nên giữ bế tắc, không chen lấn về sau khi Bĩ suy sẽ hạn chế được bế tắc.
Quẻ Bĩ là quẻ mang điềm xấu, tuy vậy không nên bi quan, bởi những điều xấu đang chuẩn bị chấm dứt. Nên tùy vào thời điểm mà thay đổi cách hành động sao cho phù hợp, tránh việc đời, kiên trì với chính đạo, sống bao dung, khiêm nhường và hăng hái làm việc cho đời.
Hình ảnh quẻ Thiên Địa Bĩ
Thoán từ: Bĩ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.
Bĩ không phải đạo người (phi nhân nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không lợi cho đạo chính của quân tử (Tượng của nó là) cái lớn (dương ) đi mà cái nhỏ (âm) lại.
Tượng quẻ: Tượng quẻ của quẻ Bĩ có tượng quẻ ngược lại với quẻ Thái. Ngoại quái Càn trên, nội quái Khôn dưới. Tượng trưng cho khí Dương đang đi lên, khí Âm đang đi xuống, vạn vật bị ngưng trệ, không gian không thể giao hòa.
Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi lên, âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên.
Đại tượng truyện – Khuyên: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn.
Gặp thời Truân, thời khó khăn, gian truân, người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn thời đã bĩ, đã bế tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi.
2. Quẻ Thiên Địa Bĩ động hào nhất theo Khổng Minh luận giải
Nguyên văn:
無上去
在前頭
回頭一悟
繩韁好收
千條萬線路常在
自好搜求.
Dịch âm:
Vô thượng khứ
Tại tiền đầu
Hồi đầu nhất ngộ
Thằng cương hảo thu
Thiên điều vạn tuyến lộ thường tại
Tự hảo sưu cầu.
Dịch nghĩa:
Đừng đi tiếp
Dừng lại ngay
Biết quay đầu lại
Sẽ thấy điều hay
Tìm được đường đi trong vạn nẻo
Tự mình chọn lối.
Lời đoán quẻ:
Lời quẻ nói "Bạt mao như kỳ vị, trinh cát. Hưởng." (Nhổ rễ cỏ tranh phải nắm cả bụi, quẻ này tốt lành, nên cúng kiến.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, người được quẻ này đang đi vào con đường lầm lạc. Khuyên rằng, đùng chạy vào đất chết, phải giữ mình cẩn thận, tìm kế sách mà thoát khỏi cảnh nguy hiểm, để sửa soạn cho một đường lối tốt đẹp hơn. Đây là một điều cần phải có cặp mắt tinh tường mới đạt được. Tất cả đều ở ngay trước mặt, muốn đi đường nào là do mình chọn mà đi. Bạn muốn mưu cầu điều gì thì hãy chọn cái mà mình thấu rõ, phù hợp với khả năng của mình mà làm, chớ nên ước vọng cao quá. Việc đi xa cũng không nên. Cầu tài, cầu danh cần cẩn thận mới tốt.
Phải tùy cơ mà hành động, chớ có đợi thời. Xưa nay những nhà hiền triết giữ mình quyết không bao giờ chịu để mình chạy vào đất chết. Họ giữ gìn cẩn thận, họ tìm đủ kế sách thoát khỏi cảnh gieo neo nguy hiểm, để sửa soạn cho một đường lối mới tốt đẹp hơn. Đây là một điều mà họ cần tới đôi mắt tinh tường mới đạt tới được kết quả mỹ mãn.
Ý quẻ nói: Tìm chi cho xa, tất cả đều ở nơi trước mặt. Và biết bao nẻo đường ngay trong mắt. Muốn đi đường nào cứ chọn mà đi. Nghĩa là người muốn cầu xin điều gì hãy tìm hiểu các hoàn cảnh chung quanh mà mình từng thấu rõ, phù hợp với phả năng điều kiện của mình chớ nên đặt vọng cao quá.
Tốt hơn hết người dựa vào cái hiện hữu mà cần tiến tới đừng thay cũ đổi mới về việc làm ăn. Còn việc đi xa cũng không nên.
Quẻ dạy: Việc trước mắt không tìm, lại tìm ở đâu. Thời đến không lo nắm ắt sẽ bị vuột. Cầu tài, cầu danh, cẩn thận mới hay, đánh số hạp vừa phải.
Con số linh ứng: 3, 4, 30, 33, 40, 43, 44.