KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 47 - THIÊN ĐỊA BĨ ĐỘNG HÀO NGŨ

1. Quẻ Thiên Địa Bĩ trong Kinh Dịch

Thiên Địa Bĩ: Tắc dã. Gián cách. Bế tắc, không thông, không tương cảm nhau, xui xẻo, dèm pha, chê bai lẫn nhau, mạnh ai nấy theo ý riêng. Thượng hạ tiếm loạn chi tượng: trên dưới lôi thôi.
Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ.
Thoán tử.

Bĩ là bế tắc nhưng khi Bĩ giai đoạn đầu còn thịnh thì nên giữ bế tắc, không chen lấn về sau khi Bĩ suy sẽ hạn chế được bế tắc.
Quẻ Bĩ là quẻ mang điềm xấu, tuy vậy không nên bi quan, bởi những điều xấu đang chuẩn bị chấm dứt. Nên tùy vào thời điểm mà thay đổi cách hành động sao cho phù hợp, tránh việc đời, kiên trì với chính đạo, sống bao dung, khiêm nhường và hăng hái làm việc cho đời.

Hình ảnh quẻ Thiên Địa Bĩ

Thoán từ: Bĩ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai.

Bĩ không phải đạo người (phi nhân nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không lợi cho đạo chính của quân tử (Tượng của nó là) cái lớn (dương ) đi mà cái nhỏ (âm) lại.

Tượng quẻ: Tượng quẻ của quẻ Bĩ có tượng quẻ ngược lại với quẻ Thái. Ngoại quái Càn trên, nội quái Khôn dưới. Tượng trưng cho khí Dương đang đi lên, khí Âm đang đi xuống, vạn vật bị ngưng trệ, không gian không thể giao hòa.

Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi lên, âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên.
Đại tượng truyện – Khuyên: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn.
Gặp thời Truân, thời khó khăn, gian truân, người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn thời đã bĩ, đã bế tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi.

2. Quẻ Thiên Địa Bĩ động hào ngũ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

真真真
人不識
真真真
神有靈
歸宗返本
方是元精.

Dịch âm:

Chân chân chân
Nhân bất thức
Chân chân chân
Thần hữu linh
Qui tông phản bổn
Phương thị nguyên tinh.

Dịch nghĩa:

Thực thực thực
Người chẳng biết
Thực thực thực
Có thần linh
Trở về nguồn gốc
Mới được an lành.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Hữu bĩ, đại nhân cát. Kỳ vong kỳ vong, hệ vu báo tang." (Có bế tắc, nhưng bậc đại nhân thì tốt lành. Coi chừng mất, coi chừng mất, ràng buộc với nhau như đám dâu rậm.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, người được quẻ này cần phải nhận ra sự thật, chân lý. Những mưu cầu nên tùy cơ ứng biến, theo yêu cầu của hoàn cảnh thì sẽ thành đạt ý muốn, nếu ngược lại, sẽ làm cho bạn hao tốn công lao và sức lực mà thôi. Cần suy nghĩ, cân nhắc trước khi hành động. Cầu tài, cầu việc đều chậm.
Ngay thực là một đức tốt. Người dù chẳng biết trời đã biết cho, cho nên ở đời, phải chuộng lòng chân thành. Chỉ cần có một ý niệm lòng chân thành mà quỷ thần ở chốn u minh cũng đã chứng giám cho mình, chẳng có gì đáng ngại.
Người xin được quẻ này cần phải chỉ trích phê bình mong thanh toán hết những điều gian dối, lừa lọc để tìm sự thật, lấy chân lý. Nhất thiết chớ có dối lừa, bịp người, bởi vì dối người tức là dối mình, bịp đời tức là bịp mình vậy.
Quẻ nói: Thiệt mà người không hiểu, nên Thần Linh đó phải quy tông hoàn bồn, thì mới là nguyên tinh, nghĩa là những việc cầu mưu của người, đã nằm trúng trọng tâm của sự việc, nhưng người chưa tìm được.
Một phương pháp để đi đến kết quả. Vì sự việc hơi quá phức tạp. Như vậy, những việc cầu xin của người nên tùy cơ ứng biến, theo yêu cầu của hoàn cảnh thì sẽ thành đạt ý muốn, và ngược lại sẽ làm cho người hao công phí sức. Như câu thứ nhứt của quẻ nói thiệt mà người không hiểu tức là hư không.
Quẻ dạy: Cần suy nghĩ cân nhắc trước khi hành động. Cố gắng mới nên công.Và làm việc có phương pháp. Cầu tài cầu mưu chầm chậm một chút. Đánh số cần chín chắn.

Con số linh ứng: 4, 7, 40, 44, 47, 74, 77.