KHỔNG MINH THẦN TOÁN QUẺ 298 - SƠN THỦY MÔNG ĐỘNG HÀO TỨ

1. Quẻ Sơn Thủy Mông trong Kinh Dịch

Sơn Thủy Mông: Muội dã. Bất minh. Tối tăm, mờ ám, không minh bạch, che lấp, bao trùm, phủ chụp, ngu dại, ngờ nghệch. Thiên võng tứ trương chi tượng: tượng lưới trời giăng bốn mặt.

Mông có nghĩa là tối, là các vật mới sinh, cũng là mờ tối chưa sáng. Khảm gặp Cấn tức là trong hiểm ngoài đỗ, trong nhà đã không yên ổn, mặt ngoài lại đi không được. Hoặc có nghĩa là một mặt bị lực lượng bảo thủ lôi kéo, nhưng mặt kia bị lực lượng cấp tiến thúc đẩy, dẫn tới khó nghĩ, phân vân và mù mờ.

Hình ảnh quẻ Sơn Thủy Mông

Thoán từ: Mông hanh, phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cốc, tái tam độc, độc tắc bất cốc, lợi trinh.

Trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công).

Tượng quẻ: Quẻ Mông trước mặt có núi chặn, sau lưng lại có sông ngăn.

Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ, cho nên gọi là Mông.
Xét theo hình tượng thì ở trên có núi (Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm), cũng có nghĩa tối tăm (Mông). Cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng "đồng mông", cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu).
Đặc biệt quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở mang cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông.
Tư cách của thầy cương, của trò nhu, cho nên thầy không phải cầu trò, mà trò phải cầu thầy. Và khi dạy, trò hỏi một lần thì bảo, nếu hỏi 2, 3 lần thì là nhàm, không bảo. Giữ được đạo chính (hoặc bồi dưỡng chính nghĩa) thì lợi thành công.

2. Quẻ Sơn Thủy Mông động hào tứ theo Khổng Minh luận giải

Nguyên văn:

叫道叫道
天將明瞭
何不伸首舒眉
反做蓬蒿到老.

Dịch âm:

Khiếu đạo khiếu đạo
Thiên tướng minh liệu
Hà bất thân thủ thư mi
Phản tố bồng hao đáo lão.

Dịch nghĩa:

Kêu vang tiếng gọi
Viên tướng trời liệu định công việc
Sao lại co đầu rút cổ mặt mày nhăn nhó
Uổng phí ngày tháng đến già.

Lời đoán quẻ:

Lời quẻ nói "Khốn mông, lận." (Kẻ đui mù cùng quẫn, khó khăn.)
Theo ý thơ của Khổng Minh, quẻ này chủ về việc đời từng trải qua nhiều. Người được quẻ này là người sống trong cảnh hoạn nạn. Hiện thời vận của bạn còn vấp phải nhiều khó khăn và trở ngại, nhưng cũng không đáng lo, về sau tình cảnh sẽ thay đổi. Vì vậy những mưu cầu của bạn ắt se thành, dù có gặp trở ngại cũng đừng nên nản chí, mà cứ tiến tới. Mọi việc sẽ suông sẻ.
Quẻ này chủ việc đời từng trải qua nhiều, có từng trải như vậy, mới thấy là già dặn, chẳng khác gì cây kia tuy mùa xuân lớn, mùa thu lá hoa tàn, nhưng lúc đó trái đã thành, gốc rễ đã to, đã ăn sâu xuống đất khiến gió mưa không thể làm cho tàn héo được. Gốc già lá tàn, đó là những chữ dùng để nói xét việc đời thâm trầm. Người xin được quẻ này đích thị là một người sống trong hoạn nạn.
Hiện nay thời vận của bạn chẳng có gì xấu, tuy công việc cầu mưu có vấp phải điều khó khăn và trở ngại, cũng không đáng lo buồn vì căn cứ bài thơ trên nói cây mọc trời xuân nghĩa là đúng thời. Câu chót nói đổi cũ rồi thì thành mới có như vậy đã mách rõ sự tốt đẹp cho biết.
Vậy sự cầu mưu của bạn ắt thành công mỹ mãn, dù gặp gì trở ngại đừng nên nản chí mà cứ tiến tới sẽ tốt lành theo sở nguyện. Sự sự sắp thông hạnh, cứ lo mà tiến hành, mọi việc đều suông sẽ, cần giữ một lòng lành. Tốt đẹp khỏi lo. Đánh số tốt.

Con số linh ứng: 2, 7, 9, 27, 29, 79, 92, 97.